PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ CỦA CHÍNH HỮU BÀI LÀM NĨI ĐẾN THƠ TRƯỚC HẾT...

Bài 4: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu Bài làm Nĩi đến thơ trước hết là nĩi đến cảm xúc và sự chân thành. Khơng cĩ cảm xúc, thơ sẽ khơng thể cĩ sức lay động hồn người, khơng cĩ sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lịng người những cảm xúc khĩ quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngơn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lịng cảm thơng sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hịa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc? Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính: "Quê hương anh đất mặn đồng chua Làng tơi nghèo đất cày lên sỏi đá" Sinh ra ở một đất nước vốn cĩ truyền thống nơng nghiệp, họ vốn là những người nơng dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một trịng áp bức. "Anh" và "tơi", hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khĩ. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xĩm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khĩ khăn ấy dường như khơng thể làm cho những người lính chùn bước: "Anh với tơi đơi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ" Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn: "Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ Đồng chí !..." Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ khơng chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ cĩ hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lịng người đọc. Trong muơn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bĩ và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận: "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà khơng mặc kệ giĩ lung lay" Cái chất nơng dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nơng dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những "gian nhà khơng mặc kẹ giĩ lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tơi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bĩng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khơn nguơi của mỗi người lính. Dẫu rằng" mặc kệ" nhưng trong lịng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ơm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Khơng liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người: "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính" Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê cĩ sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hĩa" giếng nước gốc đa" cũng cĩ nỗi nhớ khơn nguơi với những người lính. Nhưng khơng kể những vật vơ tri, tác giả cịn sử dụng nghệ thuật hốn dụ để nĩi lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngĩng trơng của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đơi trai gái yêu nhau.... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ: "Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán đẫm mồ hơi áo anh rách vai Quần anh cĩ vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân khơng giày" Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khĩ khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta cịn nghèo, những người lính cịn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm...Chỉ đơi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lịng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nĩ gần gũi mà chân thực, khơng giả dối, cao xa....Tình cảm ấy lan tỏa trong lịng của tất cả những người lính. Tình đồng chí: "Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết" ( Nhớ- hồng Nguyên) Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cơ lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hịa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng... "Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới" Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cơ đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đĩ cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trog gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ: " Đầu súng trăng treo" ánh trăng gần như gắn liền với người lính: " Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ" (ánh trăng- Nguyễn Duy) Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hịa giữa khơng gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính khơng những chân thực mà cịn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hịa vào chất thơ, chất trữ tình hịa vào chất Cách mạng, chất thép hịa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ cĩ lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong khơng gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập. Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vơ hình. Bài thơ " Đồng chí" với ngơn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy cĩ lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hơm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau...