ĐỌC NHẬT KÍ TRONG TÙ CỦA HỒ CHỦ TỊCH, NHÀ THƠ HỒNG TRUNG THƠNG VIẾT

Bài 14: Đọc Nhật kí trong tù của Hồ Chủ Tịch, nhà thơ Hồng Trung Thơng viết: “Tơi đọc trăm bài trăm ý đẹp ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh Vần thơ của Bác vần thơ thép Mà vẫn mênh mơng bát ngát tình Em hiểu bốn câu thơ trên như thế nào? Chọn và phân tích những câu thơ tiêu biểu trong Nhậtkí trong tù để làm sáng tỏ ý thơ trên. Bài làm Giản dị và thực tế như cuộc sống đời thường, thơ văn Bác đi vào lịng người rất nhẹ nhàng, sâu sắc, mà khi đọc ta khơng thể nào quên; cũng như bao nhà thơ, nhà văn khác, khi đọc Nhật kí trong tù, nhà thơ Hồng Trung Thơng đã thực sự rung động trước cái hay, cái đẹp của từng bài thơ, lời thơ, ý thơ, để rồi cảm xúc trào dâng, ơng viết: “Tơi đọc trăm bài trăm ý đẹp ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh Vần thơ của Bác vần thơ thép Mà vẫn mênh mang bát ngát tình Nhà thơ Xuân Diệu khi đọc Nhật kí trong tù của Bác Hồ cĩ lần đã nĩi: Càng đọc cànghay, càng kính trọng người tù Hồ Chí Minh Với Hồng Trung Thơng thì trăm bài trăm ý đẹp nghĩa là Nhật kí trong tù bài nào cũng đẹp. Khơng phải cái đẹp lặp lại, mà mỗi bài mỗi vẻ khác nhau. Tất cả đều đẹp. Tác giả lại viết ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh. Ta nên hiểu ánh đèn tỏa rạng ở đây như thế nào? Phải chăng ý nhà thơ muốn nĩi: ánh đèn chính là thơ Bác; thơ Bác như ánh đèn đã tỏa rạng, giúp cho ta hiểu thêm về Bác một con người vĩ đại và dạy ta biết cách làm người. Bởi vì: “Vần thơ của Bác vần thơ thép Mà vẫn mênh mơng bát ngát tình Nhà thơ nĩi đĩ là những vần thơ thép; những vần thơ mang chất thép của con người cộng sản Hồ Chí Minh. Thép ở đây là ý chí, là nghị lực, là dũng khí lớn để vượt qua hồn cảnh và khắc phục hồn cảnh của một con người vĩ đại. Nhưng dù là thơ thép nhưng tình vẫn bát ngát mênh mơng. Đĩ mới là điều Hồng Trung Thơng cần nĩi và đã nĩi. Cĩ ý kiến cho rằng: linh hồn trong Nhật kí trong tù là vẻ đẹp tâm hồn của con người Hồ Chí Minh - Người cộng sản. Tâm hồn của một con người đích thực thì bao giờ cũng vượt lên trên mọi gian khổ, khĩ khăn để khẳng định chính mình: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng Cơ em xĩm núi xay ngơ tối Xay hết lị than đã rực hồng (Chiều tối) Cũng phải nĩi ngay rằng, đây là một cảnh thực; là cảnh Bác đã phác họa trên đường bị giải, khi trời chiều đã bảng lảng; trên trời một cánh chim cơ đơn đang bay mỏi mệt mà khơng biết sẽ đậu chốn nào về rừng tìm chốn ngủ và từng chịm mây, trơi nhẹ che mặt trời cũng sẽ tìm chỗ dừng chân (phía cuối trời!). Vậy là con chim cịn cĩ đích để mà dừng (“Về rừng) cịn con người ở đây thì sao? Giữa cảnh âm u mịt mùng của rừng núi hiểm trở khơng một phút được dừng chân. Tất cả chỉ cịn là sự mỏi mệt, vội vã, sự uể oải đầy nặng nhọc. Tưởng như tất cả cảnh vật đã rất buồn và chìm đi trong bĩng tối khi mà người tù cũng đã mỏi mệt. Nhưng khơng, chỉ bằng một từ hồng nhà thơ đã xĩa sạch đi đêm tối bao trùm và ánh sáng màu hồng đã bao phủ tồn bộ bài thơ. Tất cả sự mỏi mệt, vội vã, sự nặng nhọc mà tác giả đã diễn tả ở trên khơng cịn nữa; thay vào đĩ là niềm vui, là sự hân hoan hướng về phía ánh sáng nơi cĩ Cơ em xĩm núi xay ngơ tối. Phải chăng đấy cịn là sự khao khát của con người xa quê, hướng về cuộc sống và sự sinh hoạt bình thường mà đầm ấm của gia đình.Với câu cuối cùng, tất cả cịn lại chỉ là một màu hồng; màu hồng làm sáng khơng gian, soi rõ hình ảnh của cơ em xĩm núi đang miệt mài lao động, phải chăng, đĩ cũng là màu hồng của tư tưởng Bác, là cái tình mênh mơng, bát ngát mà Bác dành cho con người, cho cảnh vật. Gà gáy một lần đêm chửa tan Chịm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn Người đi cất bước trên đường thẳm Rát mặt đêm thu, trận giĩ hàn (Khổ I, Giải đi sớm) Cĩ người cho rằng ở khổ I này, cảnh vật và con người đối nhau. Đúng như thế. Nhưng tuyđối nhau mà sự hịa hợp giữa tâm hồn rất đẹp, rất sáng của người tù với thiên nhiên lại thêm phần đẹp và ảo hơn. Trong hồn cảnh khắc nghiệt ấy, lịng lạc quan cách mạng vừa là phương thức để tồn tại, để vượt qua, vừa để khắc phục mọi hồn cảnh. Đĩ là điều tất yếu, song cái chính vẫn là ở tâm hồn con người, ở ý nghĩa, ở niềm tin. Nĩi như Hồi Thanh đĩ là Cảnh ban mai tràn đầy khí thế . Phương Đơng màu trắng chuyển sang hồng Bĩng tối đêm tàn quét sạch khơng Hơi ấm bao la trùm vũ trụ Người đi thi hứng bỗng thêm nồng. Nếu như khơng cĩ một niềm tin sắt đá vào một tương lai tươi sáng, thử hỏi làm sao Bác cĩ thể cĩ được những giọng thơ tràn đầy hào khí đến thế ? Trong bài cảnh chiều hơm, ý thơ chuyển sang một đề tài, một khía cạnh khác, nhưng cái chất thép và tình đặc biệt bát ngát mênh mơng của Người vẫn khơng hề thay đổi: Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng Hoa tàn, hoa nở cũng vơ tình Hương hoa bay thấu vào trong ngục Kể với tù nhân nỗi bất bình Bài thơ nĩi rất thực về sự việc hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng.Vậy đấy! đẹp như hoa hồng mà nở rồi cuối cùng cũng phải tàn. Đĩ chẳng phải là sự vơ tình của thiên nhiên? Nhưng đâu chỉ là thiên nhiên vơ tình. Chất thép nằm ở chỗ nhận ra và phê phán thĩi vơ tình này. Và sự bất bình của chút hương hoa chỉ cĩ thể đem giải bày cùng người tù người cộng sản vĩ đại, một nghệ sĩ, một nhà thơ. Âu đĩ cũng là cái tình của Bác với hoa với nhân loại đau khổ vậy. Người xưa cĩ câu: Khi lo, lo trước thiên hạ, Khi vui, vui sau thiên hạ. Hồ Chí Minh cũng vậy, Người buồn với nỗi buồn của người đời. Người che chở cho cả nhân loại cần lao. Ơi lịng Bác vậy cứ thương ta Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa Chỉ biết quên mình cho hết thảy Như dịng sơng đỏ nặng phù sa Một tâm hồn, một con người, một cuộc đời luơn yêu tất cả, chỉ quên mình. Đĩ là con người vĩ đại,sống hết mình, vì con người; vì vậy, khi làm thơ, dù trong hồn cảnh khắc nghiệt, thơ Bác vẫn là vần thơ thép , “Mà vẫn mênh mơng bát ngát tình”.