HIỂU BIẾT CỦA EM VỀ ĐIỂN TÍCH ĐIỂN CỐ TRONG TRUYỆN KIỀU – NGUYỄN DU. B...

Bài 15: Hiểu biết của em về Điển tích điển cố trong Truyện Kiều – Nguyễn Du. Bài làm Người xưa làm thơ viết văn thường sử dụng điển cố, điển tích. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng sử dụng nhiều điển cố. Vậy Nguyễn Du sử dụng điển cố như thế nào? Điển cố trong Truyện Kiều thường được lấy ở nhiều nguồn. Nhưng đậm đặc hơn cả vẫn là trong lịch sử và văn học Trung Quốc. Dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Du, các điển cố ấy trở nên sinh động và hàm súc. Trong cảnh đồn viên ở màn "Tái hồi Kim - Kiều" cuối Truyện Kiều, Kim - Kiều gặp nhau sau 15 năm lưu lạc, trong "tiệc hoa sum vầy" mà mọi người đều mừng mừng tủi tủi, "tàng tàng chén cúc dở say" đĩ, Thúy Vân đã đứng lên giãi bày: Trước kia, anh và chị "hai bên gặp gỡ một lời kết giao", "trăm năm thề chẳng ơm cầm thuyền ai", trải qua tai biến, bây giờ gặp lại, tuy khơng được như xưa nữa, và dù chị đã lớn tuổi nhưng việc lấy chồng nay vẫn cịn kịp. Và Thúy Vân đã khuyên: Quả mai ba bảy đương vừa Đào non sớm liệu xe tơ kịp thời Nĩi "quả mai ba bảy" tức là lấy ý từ Kinh Thi. Bài "Phiếu hữu mai" cĩ đoạn: "Phiếu hữu mai kỳ thực thất hề- Phiếu hữu mai kỳ thực tam hề- Cầu ngã thứ sĩ- Đãi kỳ kim hề". Nghĩa là: cây mai đã cĩ quả rụng (nĩi quả là ngụ ý chỉ người con gái), mười phần cịn bảy. Những chàng trai lành, ai người muốn lấy ta, nên tìm ngày tốt mà làm lễ cưới đi thơi. Cây mai đã cĩ quả rụng, mười phần chỉ cịn ba. Những chàng trai lành ai người muốn lấy ta, ngày hơm nay đến xin làm lễ cưới đi thơi. Mục đích cuối cùng của việc dùng điển này, ở trong Truyện Kiều lẫn Kinh Thi, là để đi đến cái việc làm lễ cưới xin, nên vợ nên chồng. Cái hay, cái tài của Nguyễn Du là: thuyết phục thì phải dồn dập, phân minh, xác đáng và súc tích. Rõ ràng, Thúy Kiều cĩ ưu thế hơn người phụ nữ kia trong Kinh Thi. Chưa hết, câu tiếp lại cịn dùng đến "đào non". Kinh thi cĩ bài Đào yên (Cây đào tơ) như sau: "Đào tơ rực rỡ lá hoa. Cơ về hịa thuận cửa nhà chồng cơ. Đào tơ lá tốt rườm rà. Cơ về hịa thuận người nhà chồng cơ". Người con gái trong Kinh Thi đang mơn mởn sức sống, yêu đời, về nhà chồng sống hịa thuận, ấm êm thì cũng thường tình. Cịn nĩi Kiều đang độ "đào non" như cơ gái trong điển trên quả là bạo bút và thần tình. Tuy nhiên, đưa điển ấy vào trong lời khuyên của Thúy Vân mới đắt, mới dễ thuyết phục và quả là đã xiêu lịng chị. Chị mà xe tơ với chàng Kim là êm ấm, hịa thuận cho cả gia đình đấy chị ơi! Cịn đây là cách dùng điển khác của Nguyễn Du. Khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm nàng Kiều, thì ơi thơi khơng thấy nàng đâu cả: Trước sau nào thấy bĩng người Hoa đào năm ngối cịn cười giĩ đơng Thơi Hộ đời Đường, tư chất thơng minh, phong nhã, nhân tiết Thanh Minh, một mình đi chơi về phái Nam thành đơ, thấy một ấp trại, xung quanh trồng hoa đào, Thơi Hộ gõ cửa xin nước uống. Một người con gái mở cổng, hỏi tên họ rồi bưng nước đến. Người con gái đĩ cĩ sắc đẹp đậm đà và duyên dáng, tình ý dịu dàng và kín đáo. Năm sau, cũng vào tiết Thanh Minh, Thơi Hộ lại tìm đến người cũ, thì thấy cửa đĩng, then cài, nhân đĩ mới đề trên cánh cửa bên trái một bài thơ: Khứ niên kim nhật thử mơn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ? Đào hoa y cựu tiếu đơng phong (Năm ngối, trong cổng này, mặt người và hoa đào màu hồng ánh lẫn nhau, năm nay, mặt người khơng biết ở chốn nào, chỉ cịn hoa đào vẫn cười với giĩ đơng như cũ). Nguyễn Du đã dùng điển này, và Xuân Diệu đã khen: "Đúng Nguyễn Du là tay thầy, "Chẳng biết mặt người đâu vắng vẻ. Hoa đào như cũ cười giĩ đơng". Mình chỉ lấy cái tứ "Hoa đào cịn nở đĩ, người đã đi đâu" của người ta, cho nên Nguyễn Du để "Trước sau nào thấy bĩng người", như thế là thanh thốt, thanh nhã." Rõ ràng là trong khi sử dụng điển, Nguyễn Du đã linh hoạt tước bỏ đi những chi tiết cụ thể, chỉ lấy cái tứ mà viết nên những câu thơ mới lạ, thanh thốt thanh nhã đến như vậy. Câu thơ nhẹ nhàng thoắt trước thoắt sau, bay bổng trong khơng gian vắng lặng bĩng người, cùng với làn giĩ từ phương đơng thổi tới (chứ khơng phải giĩ mùa đơng lạnh giá, bởi mùa xuân-giĩ đơng-thì hoa đào mới nở, trong tiết Thanh Minh mà), là để diễn tả một nỗi lịng nặng trĩu, lo âu của chàng Kim khi khơng gặp Thúy Kiều. Nĩi là dịch thốt cũng được! Nhưng cần phải thấy rằng, đưa điển này vào đây, với câu thơ lục bát, người ta vẫn cĩ thể hiểu được ý tác giả muốn nĩi gì. Chứ khơng phải trơ trơ như hai câu thơ trong truyện Nơm Hoa Tiên, diễn tả cùng một ý đĩ: Mừng xuân đào mới ngậm cười Vẻ hồng trơ đĩ mặt người nào đâu Hoa Tiên cứ bị động khi viết "mặt người nào đâu", rõ là khơng thanh, câu thơ nham nhám thơ tháp thế nào ấy. "Đào mới ngậm cười" là đào mới nở, hàm tiếu, dùng chữ "trơ" là khơng hợp, vì khơng nên buồn người năm ngối vắng mà thấy hoa đào đến nỗi trơ ra, thì chẳng cịn gì là nhân tình nữa. Chỉ hai ví dụ trên, ta thấy Nguyễn Du dùng điển như thế nào. Trong Truyện Kiều cịn cĩ nhiều chỗ được dùng điển cũng khơng kém phần linh hoạt và thanh nhã. Điều đĩ, một phần cĩ được là tài bút của Nguyễn Du. Nhưng điều chắc chắn là ơng am hiểu sâu sắc lịch sử và văn hĩa Trung Quốc, hiểu rõ cảnh tình của nhân vật một cách sâu sắc, như sống cùng với nhân vật của mình. Truyện Kiều là một sự tái tạo lại "điển cố" lớn là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân mà nên. Truyện Kiều tồn mỹ, tồn bích hơn nhiều so với nguyên tác là lẽ đĩ.Đây là cái lý mà Nhữ Bá Sĩ (1788-1867) đã bình luận: Kỳ tài diệu bút Thanh Tâm viễn quá Thanh Tâm (Với ngịi bút tài năng đặc biệt Thanh Hiên vượt quá Thanh Tâm) Thanh Hiên là hiệu của Nguyễn Du. Thanh Tâm là nĩi đến Thanh Tâm tài nhân vậy.