4. QUẢN LÝ TIỀN MẶT.THEO SỐ LIỆU Ở BIỂU SỐ 9, TA THẤY SỐ VỐN BẰNG...

2.4.2. Quản lý tiền mặt.

Theo số liệu ở biểu số 9, ta thấy số vốn bằng tiền của doanh nghiệp cuối

năm 2001 giảm 74,6% so với đầu năm. Để xem lượng vốn bằng tiền của Công

ty có đủ thanh toán công nợ và cho các hoạt động của mình không, ta xét hai chỉ

tiêu sau:

Chỉ tiêu 2000 2001

Tỷ suất thanh toán tức thời 0,47 0,25

Tỷ suất thanh toán vốn lưu động 0,18 0,07

Về tỷ suất thanh toán tức thời, cả hai năm tỷ suất này của Công ty đều

nằm trong khoảng an toàn (lớn hơn 0,1 và nhỏ hơn 0,5). Tuy nhiên, tỷ suất này

năm 2001 đã giảm từ 0,47 xuống còn 0,25 cho thấy doanh nghiệp giảm khả năng

thanh toán so với năm trước.

Về tỷ suất thanh toán vốn lưu động, phạm vi an toàn cho doanh nghiệp là

trên 0,5. Cả hai năm tỷ suất này của Công ty đều dưới mức an toàn. Năm 2001

tỷ suất này bằng 0,7 là quá thấp, Công ty có thể sẽ không đủ tiền để thanh toán.

Tuy nhiên, nếu tính cả các khoản phải thu thì tỷ suất này bằng 0,57 năm 2000 và

0,85 năm 2001, cho thấy Công ty có thể đảm bảo được khả năng thanh toán

trong vòng 1 năm.

Tiền mặt bao gồm tiền tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp. Nó được

sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả

nợ ...

Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi cho nên trong quản lý

tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ vai trò là mục tiêu quan

Hằng

trọng. Tuy nhiên, việc giữ đủ tiền mặt để trang trải cho các hoạt động của doanh

nghiệp cũng rất cần thiết.

Số vốn bằng tiền của doanh nghiệp có hợp lý hay không được đánh giá

qua hai chỉ tiêu:

Tổng số vốn bằng tiền

Tỷ xuất thanh toán của VLĐ = ---

Tổng số vốn VLĐ

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của TSLĐ. Nếu chỉ

tiêu này lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt vì sẽ gây ứ đọng vốn hoặc

thiếu tiền để thanh toán.

Tổng số vốn bằng tiền

Tỷ suất thanh toán tức thời = ---

Tổng số nợ ngắn hạn

Nếu tỷ suất này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong

việc thanh toán, công nợ và do đó có thể phải bán gấp sản phẩm, hàng hoá để trả

nợ vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên, nếu tỷ suất này quá cao thì lại phản

ánh tình trạng vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay của tiền chậm làm giảm hiệu

quả sử dụng vốn.