CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM. PHÂN LOẠI CẤU THÀNH TỘI PHẠM
Câu 11. Các yếu tố cấu thành tội phạm. Phân loại cấu thành tội phạm?
TRẢ LỜI:
a. Các yếu tố cấu thành tội phạm:
Các yếu tố cấu thành tội phạm là các bộ phận cấu thành tội phạm. Theo khoa học luật hình sự VN
các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm:
- Khách thể của tội phạm: là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. không có sự xâm hại quan hệ
xã hội được được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm. trong lý luận về luật hình sự, việc
gây thiệt hại đối với khách thể đã được qui định trong luật hình sự được gọi là hậu quả. Giữa hành
vi phạm tội đã được thực hiện và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra tốn tại mối quan hệ nhân
quả.
- Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
định đã thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, ở những tội nhất định, còn đòi hỏi chủ thể phải có
các dấu hiệu khác, thể hiện những đặc điểm nhất định của chủ thể. Bất cứ tội phạm cụ thể nào
cũng phải có chủ thể;
- Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, là những biểu hiện
bên ngoài của tội phạm, là những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan, bao gồm: hành vi
nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả cũng như những điều kiện bên ngoài khác. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải có
những dấu hiệu bên ngoài.
- Mặt chủ quan của tội phạm: là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lí của chủ thể đối
với hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. bất cứ tội
phạm cụ thể nào cũng là hành vi có lỗi. Động cơ và mục đích phạm tội là nội dung biểu hiện của
mặt chủ quan ở một số tội nhất định.
Cấu thành tội phạm bao gồm bốn nhóm các dấu hiệu đặc trưng cho bốn yếu tố trên. Mỗi một yếu
tố cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu khác nhau. Căn cứ vào vai trò của các dấu hiệu đối
với cấu thành tội phạm, có thể phân tất cả các dấu hiệu thuộc nội dung các yêú tố cấu thành tội
phạm thành hai loại:
- Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm. Đó là: Dấu hiệu hành vi thuộc yếu
tố mặt khách quan của tội phạm; Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm; Dấu hiệu
năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm.
- Các dấu hiệu không bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm: như dấu hiệu hậu quả, dấu
hiệu mục đích phạm tội, động cơ phạm tội ....
Theo luật hình sự VN, bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều là chủ thể thống nhất giữa mặt khách
quan và chủ quan – giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lí bên trong, đều là
hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Sự
thống nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính trị, xã hội của
tội phạm. Nếu về mặt nội dung chính trị, xã hội những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì về mặt cấu trúc, bốn yếu tố cấu thành tội phạm cũng có
những nội dung biểu hiện khác nhau. Chính sự khác nhau này quyết định tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
b. Phân loại cấu thành tội phạm:
- Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản
ánh: Được phân làm ba loại :
+ Cấu thành tội phạm cơ bản: là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội
phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác;
+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm
dấu hiệu phản ánh tội phãm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể;
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm
dấu hiệu phản ánh tội phãm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng
kể.
- Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm:
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể chia cấu thành tội phạm
thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức:
+ Cấu thành tội phạm vật chất: là cấu thành tội phạm mà nội dung mặt khách quan của nó luật qui
định các dấu hiệu hành vi, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
Dấu hiệu hậu quả - và mối quan hệ nhân quả - trong cấu thành tội phạm vật chất được thể hiện ở
hai mức độ khác nhau:
Thứ nhất, nếu hành vi đã gây ra hậu quả mà điều luật đã qui định thì mới cấu thành tội phạm;
Thứ hai, nếu hành vi đã gây ra hậu quả mà điều luật qui định thì tội phạm mới được coi là hoàn
thành.
+ Cấu thành tội phạm hình thức: là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với các tội phạm có cấu thành hình thức, thì chỉ cần có việc đã
thực hiện hành vi khách qun đã được qui định trong điều luật qui định tội phạm, thì hành vi đó bị
coi là tội phạm và tội phạm đã hoàn thành.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, người ta còn phân cấu thành tội phạm thanh
một loại cấu thành khác nữa là cấu thành tội phạm cắt xén. Đây là một dạng đặc biệt của cấu
thành tội phạm hình thức. Cũng như trong cấu thành tội phạm hình thức, trong mặt khách quan
của cấu thành tội phạm cắt xén luật chỉ qui định dấu hiệu hành vi, không qui định dấu hiệu hậu
quả. Nhưng hành vi trong cấu thành tội phạm cắt xén khác với hành vi trong cấu thành tội phạm
hình thức. Điểm khác nhau đó thể hiện ở chỗ hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm cắt xén
chỉ là một bộ phận hay một giai đoạn của hành vi mà người phạm tội mong muốn thực hiện để
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhằm đạt được mục đích nhất định. Đối với cấu thành tội
phạm cắt xén, thì chỉ cần có việc thực hiện hành vi cắt xén đã được mô tả trong điều luật tương
ứng, mà không đòi hỏi phải có việc thực hiện đầy đủ hành vi mà người phạm tội mong muốn, thì
hành vi phạm tội đó đã được coi là hoàn thành.
- Dựa vào phương thức mô tả các dấu hiệu của cấu thành tội pham: người ta phân thành :
+ Cấu thành tội phạm giản đơn: là cấu thành tội phạm chỉ mô tả một hành vi phạm tội xâm hại
đến một khách thể.
+ Cấu thành tội phạm phức hợp: là cấu thành tội phạm mô tả nhiều dấu hiệu, yếu tố nào đó.