1995, phát triển được 463.294 hội viên mới trong đó có 14.045 phụ nữ dân tộc, tôn
giáo. Đến năm 1996, cả nước có hơn 10 triệu hội viên Hội phụ nữ trong đó hơn
62% có độ tuổi từ 18 trở lên và gần 4 triệu hội viên nòng cốt, số hội viên mới phát
triển là 453 nghìn người. [11, tr.146]
Các cấp hội xác định quỹ hội có vai trò quan trọng đối với phong trào phụ nữ
và chính sách cán bộ Hội nên các cấp hội đều có quỹ để trợ cấp cán bộ hội từ tổ
trưởng đến chấp hành phụ nữ xã, thăm hỏi, động viên khen thưởng, cho hội viên
75
nghèo vay vốn phát triển sản xuất hoặc trợ giúp cho các vùng khó khăn bão lụt. Quỹ
hội ở các cấp hội được phát triển từ dịch vụ nấu ăn, giải khát, thu nhập từ các trung
tâm hướng nghiệp dạy nghề, nhận khoán các công trình, góp ngày công, làm dịch
vụ. 100% cấp tỉnh thành, quận huyện/53 tỉnh, thành đều có quỹ, 9.101 cơ sở, 52 tổ
phụ nữ có quỹ phục vụ công tác. [39, tr.10]
Việc kiện toàn bộ máy, công tác cán bộ và đào tạo bồi dưỡng đang dần từng
bước đáp ứng yêu cầu nội dung, phương thức hoạt động mới của Hội. Tuy nhiên,
công tác tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ vẫn còn một số hạn chế. Bộ máy tổ
chức hội từ TW đến cơ sở chưa được ổn định, đa số đội ngũ cán bộ cơ sở có trình
độ phổ thông hoặc chưa tốt nghiệp phổ thông, trình độ lý luận phần lớn ở sơ cấp, có
cán bộ chưa có trình độ lý luận chính trị. Đây thực sự là một khó khăn đối với sự
phát triển của công tác hội.
Chương trình Tổ chức nghiên cứu và vận động quần chúng tham gia xây
dựng, giám sát, kiểm tra chính sách, luật pháp, cơ chế mới liên quan trực tiếp đến
quyền lợi phụ nữ. Nghiên cứu một số vấn đề về gia đình
Với tư cách là một tổ chức chính trị xã hội, là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Hội có quyền lợi và trách nhiệm tham gia đóng góp ý kiến đối với
dự thảo Luật và dưới luật, tham gia giám sát, kiểm tra các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ. Sự ra đời của Nghị quyết số 04-NQ/TW
“Về đổi mới và tăng cường công tác vận động trong tình hình mới ngày12/7/1993
của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 28- CT/TW ngày 19/9/1993 “Về thực hiện Nghị quyết
của Bộ Chính trị: Đổi mới, tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình
mới” và chỉ thị 37/CT/TW “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình
mới” ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư cho thấy sự quan tâm, tạo điều kiện của Đảng,
Nhà nước cho Hội.
Từ TW đến các cấp hội cơ sở tích cực tham gia, nhận được báo cáo góp ý
của 40 đơn vị tham gia ý kiến sửa đổi một số điều trong Dự án Bộ Luật Dân sự,
phối hợp với Bộ Tư pháp và các ngành liên quan khảo sát thực tế để bổ sung Luật
Hôn nhân gia đình năm 1986, trực tiếp dự thảo Chương 10 của Bộ Luật Lao động.
76
Hàng loạt các chuyên đề nghiên cứu được tiến hành từ TW đến cơ sở: «Xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc », «Gia đình và sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam», «Nghiên cứu gia đình», «Nghiên cứu giới, gia đình và môi trường»,
«Thực trạng gia đình Vĩnh Phú và xây dựng chuẩn mực về gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ của phụ nữ», «Hiện trạng nữ công nhân lao động ra khỏi dây chuyền
sản xuất»... Kết quả nghiên cứu giúp Hội có thêm cơ sở khoa học đề ra chủ trương
củng cố tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức hội trong thời
kỳ mới; đề xuất, kiến nghị với Đảng, Chính phủ một số chính sách về gia đình, lao
động nữ, cán bộ nữ.
Bạn đang xem 1995, - CAU HOI TRAC NGHIEM LICH SU 12 GIAI DOAN 1919 1954