1.2.2. Hoạt động chính của Hội
Sau chiến tranh, tình hình kinh tế - xã hội ở hai miền gặp rất nhiều khó khăn.
Miền Bắc 6 thành phố, 29 thị xã, 150 huyện, thị trấn, 4000 xã bị bom tàn phá nặng
nề. Tất cả các khu công nghiệp, đường xá, cầu cống đều bị phá huỷ và gây thiệt hại
nghiêm trọng. Ở miền Nam, những tàn tích do chiến tranh để lại vô cùng to lớn,
43% diện tích trồng trọt và 44% diện tích rừng bị chất độc hóa học phá hủy. Nhiều
tệ nạn xã hội tràn lan như gái mại dâm, thanh niên nghiện hút, trẻ mồ côi, hàng triệu
người thất nghiệp, nhiều gia đình ly tán... Trong khi đó, ngay sau giải phóng, Đảng
bộ và nhân dân miền Nam đã tập trung vào xây dựng và củng cố chính quyền cách
mạng và truy quét tàn quân địch.
Trong công tác này, chị em rất tích cực. Các cấp Hội phụ nữ đặc biệt quan
tâm đến công tác vận động phụ nữ tham gia truy lùng, trấn áp các đối tượng phản
cách mạng, vận động gia đình thương binh, liệt sĩ của chế độ cũ thuyết phục chồng
27
con hoàn lương đi theo cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng. Tính đến giữa năm 1976 có 292.296 phụ nữ tham gia công việc
bảo vệ chính quyền, vận động được 40.035 thân nhân và 30.526 binh sĩ cũ ra trình
diện chính quyền; các chị cũng theo dõi, phát hiện trên 5.000 tên ác ôn có tội với
nhân dân còn lẩn trốn; hướng dẫn bộ đội truy lùng Fulro, kêu gọi chồng con lạc
đường về trình diện; giúp các cơ quan an ninh bắt hàng nghìn sĩ quan ngụy tổ chức
vượt biên.[23, tr.63-64]
Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam đã vận động chị em phụ nữ ở
khắp các tỉnh miền Nam tập trung khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản
xuất, chăm lo đời sống nhân dân, ưu tiên hàng đầu là công tác cứu đói. Các phong
trào “Hũ gạo tình thương”, “Lá lành đùm lá rách” được phát động từ Thừa Thiên
Huế trở vào các tỉnh khu V, đồng bằng Nam bộ, Hội đã tham gia đưa hàng nghìn
tấn gạo, hàng triệu đồng cứu trợ cho đồng bào vùng khó khăn. Nhiều nơi, Hội phụ
nữ giúp ngành lương thực “đưa gạo đến tận tay nhân dân”.
Thành tích có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đáng biểu dương nhất của phụ nữ
miền Nam giai đoạn này là thanh toán nạn mù chữ và các tệ nạn xã hội. Các cấp
Hội phối hợp với ngành giáo dục tổ chức các lớp học bình dân học vụ, bổ túc văn
hoá cho cán bộ hội và nhân dân. Các cuộc vận động mang tên “Biết chữ đền ơn
Bác”, “Biết chữ để đi bầu”, “Lớp học 8/3”, vận động nữ thanh niên tham gia các
phong trào “ Lao động tình nguyện”, “Thanh niên xung phong”. Sau một năm đẩy
mạnh các phong trào xóa nạn mù chữ đã có hơn 200.000 phụ nữ trong toàn miền
Nam được cấp giấy chứng nhận biết chữ, 334.502 chị tiếp tục theo học ở 1.658 lớp.
Nhiều đơn vị đã làm lễ “xóa sạch nạn dốt”: 8 phường của thành phố Hồ Chí Minh, 6
phường của Đà Lạt, 6 xã của Long An… [23, tr.69]
Công tác đào tạo cán bộ hội ở cơ sở được chú trọng để đáp ứng yêu cầu
tình hình mới. Trường Lê Thị Riêng sau ngày giải phóng đã mở khóa đầu tiên cho
170 cán bộ tỉnh, thành, huyện vừa học văn hóa vừa học nghiệp vụ. 20 tỉnh, thành
đã mở lớp huấn luyện bồi dưỡng cho 68.810 cán bộ xã và tổ trưởng, tổ phó các tổ
hội phụ nữ.
28
Tính đến tháng 5/1976, số lượng hội viên Hội phụ nữ trong toàn miền Nam
tăng lên gần 1 triệu (trước giải phóng chỉ có khoảng 91.000). Trong cuộc bầu cử
Quốc hội khóa IV, chị em phụ nữ các tỉnh phía Nam đạt tỉ lệ đi bầu cử cao với 98%,
đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Trị Thiên.
Công tác cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và cải tạo nông nghiệp
ở miền Nam sau giải phóng là một trong những vấn đề trọng tâm trong hoạt động
của Hội phụ nữ thời kỳ này. Chỉ thị 43 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp là một công tác trọng tâm thường xuyên tập trung sức
thực hiện trong những năm trước mắt”. Xác định phụ nữ có vai trò to lớn trong công
cuộc này, Trung ương Hội nhấn mạnh: “Cuộc vận động cải tạo quan hệ sản xuất ở
miền Nam có ý nghĩa sâu sắc đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và đem lại quyền
lợi về mọi mặt cho phụ nữ ở nông thôn. Vì vậy, các cấp Hội phải coi đó là một
trong những nhiệm vụ trung tâm của Hội, phát huy tác dụng tích cực của tổ chức
Hội để góp phần hoàn thành thắng lợi cuộc vận động”. [55, tr.1] Vấn đề nông dân
và vận động phụ nữ tham gia cải tạo nông nghiệp ở miền Nam trước tháng 2 năm
1979 do Ban Nữ nông dân của Trung ương Hội (thành lập năm 1974) phụ trách.
Tháng 3 năm 1979, Ban cải tạo nông nghiệp được thành lập do 01 đồng chí thường
vụ làm Trưởng Ban, bố trí riêng ở phía Nam giúp Ban Thường vụ Trung ương Hội
chỉ đạo cuộc vận động phù hợp và nhanh nhạy hơn. Các tỉnh, thành, huyện phân
công ủy viên thường vụ phụ trách vấn đề nữ nông dân. Hội phụ nữ các cấp phía
Nam đã giáo dục động viên phụ nữ tích cực tham gia phong trào làm ăn tập thể: tập
đoàn sản xuất, tổ đoàn kết sản xuất, vần đổi công, hợp tác xã… Đến cuối tháng 11
năm 1979, ở 21 tỉnh phía Nam đã có 14.617 tập đoàn sản xuất và 3.474 hợp tác xã
với hàng triệu nữ nông dân tham gia. Một số địa phương có tỉ lệ cao như huyện Chợ
Gạo (tỉnh Tiền Giang) có 15.950/19.000 hội viên vào hợp tác xã, tưong đương 83%;
huyện Hàm Thuận (tỉnh Thuận Hải) có 21.083/30.000 hội viên phụ nữ tham gia hợp
tác xã, tương đương 70.3%. Năm 1980, qua một thời gian thực hiện cải tạo nông
nghiệp, toàn miền Nam đã xây dựng 1.747 hợp tác xã, 15.801 tập đoàn sản xuất, thu
hút 50% nông dân, 30% diện tích. [55, tr.5] Hội phụ nữ đã khẳng định được vai trò
29
ở những hợp tác xã, tập đoàn khá và tiên tiến, trong nhiều khâu sản xuất, chị em giữ
vai trò chủ chốt: sử dụng giống mới, cấy kỹ thuật, làm phân, làm thủy lợi. Năm
Bạn đang xem 1. - CAU HOI TRAC NGHIEM LICH SU 12 GIAI DOAN 1919 1954