BẰNG HIỂU BIẾT VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN, HÃY LÀM SÁNG RÕ LUẬNĐIỂM CỦA...

Câu 18: Bằng hiểu biết về lý luận và thực tiễn, hãy làm sáng rõ luận

điểm của V.I.Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn là quan điểm thứ

nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.

Quan điểm trên của Lênin xuất phát từ vai trò của thực tiễn đối với hoạt

động nhận thức của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực

tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính có tính lịch sử - xã hội của con người

nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Như vậy, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt

động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất cảm tính nhằm cải tạo tự

nhiên và xã hội không phải là hoạt động tinh thần.

Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể (con người) và

khách thể (giới tự nhiên), là dạng hoạt động vật chất trong đó chủ thể làm biến

đổi khách thể. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương

tiện, công cụ vật chất cũng như sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự

nhiên, xã hội nhằm cải tạo, làm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử

dụng của mình. Vì vậy có thể nói thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản nhất

của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ

giữa con người và thế giới.

Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội vì nội dung, phương pháp,

phương tiện cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào những điều kiện

lịch sử nhất định. Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay

đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là

dạng hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của xã

hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội

loài người. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ

phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm

chủ xã hội của con người.

Là những hoạt động có mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ cho

con người, nó thể hiện tính tự giác cao, khác với hoạt động bản năng của con vật

(hoạt động của động vật là hoạt động thích nghi). Hoạt động thực tiễn được thể

hiện qua ba hình thức cơ bản sau đây:

Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất.

Đây là hình thức nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và

phát triển của XH loài người, quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn.

Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động CT-XH nhằm cải tạo,

biến đổi XH, phát triển các quan hệ XH, chế độ XH (mít tinh, biểu tình, bãi

công, bãi khóa, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp...) Đây là hình

thức hoạt động thực tiễn cao nhất, thiếu hình thức này con người không thể phát

triển bình thường.

Với sự ra đời và phát triển của khoa học làm xuất hiện hình thức cơ bản

thứ ba của thực tiễn hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt

động thực tiễn đặc biệt nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra

lý thuyết khoa học. Hình thức hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng do sự

phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại. Trong ba

hình thức ấy thì hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, vì nó

quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong mọi thời kỳ lịch

sử. Hơn nữa, các hình thức hoạt động khác suy cho cùng là từ hoạt động đó mà

ra và nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động đó.

Hoạt động thực tiễn có hai đặc trưng sau:

Thứ nhất, hoạt động thực tiễn là những hoạt động vật chất của con người

nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói đến hoạt động thực tiễn là hoạt động vật

chất, điều đó có nghĩa là, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những

đối tượng vật chất, những phương tiện vật chất … để tác động, trực tiếp làm

thay đổi bản thân sự vật, trực tiếp cải tạo thế giới trong hiện thực. Nói đến hoạt

động vật chất, tức là nói đến sức mạnh vật chất, sức mạnh trực tiếp cải tạo thế

giới của con người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra một

hiện thực mới, một “thiên nhiên thứ hai”, thế giới của văn hóa tinh thần và vật

chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người.

Thứ hai, hoạt động thực tiễn có tính lịch sử xã hội. Tính xã hội của hoạt

động thực tiễn có nghĩa là thực tiễn không chỉ là những hoạt động của từng con

người riêng lẻ, mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội

dung cũng như từ phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội.

Hoạt động thực tiễn là một quá trình lịch sử, trải qua quá trình vận động và phát

triển và các giai đoạn lịch sử của nó. Có thể nói, thực tiễn là sản phẩm lịch sử,

những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con

người với con người.

Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu của nhận thức. Bằng hoạt động

thực tiễn, con người trực tiếp tác động vào sự vật, bắt các sự vật hiện tượng của

thế giới phải bộc lộ những thuộc tính và tính quy luật của chúng. Điều đó có

nghĩa là thực tiễn đã cung cấp những tài liệu làm cơ sở cho nhận thức. Tri thức

của con người có thể thu nhận được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc dưới

dạng gián tiếp. Nhưng xét đến cùng thì mọi tri thức của con người đều nảy sinh

từ hoạt động thực tiễn. Không có thực tiễn thì con người sẽ không có nhận thức,

không có hiểu biết. Không có những kinh nghiệm thực tiễn thì không có tri thức

lý luận. Hơn nữa, chính trong quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở phát huy

tính tích cực sáng tạo của con người, là cơ sở của sự phát triển trí tuệ con người.

Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển, luôn đặt ra những vấn đề mới đòi

hỏi nhận thức phải trả lời, đặt ra những nhiệm vụ và phương hướng phát triển

cho nhận thức, đòi hỏi những tri thức mới, những khái quát mới để lý giải những

vấn đề nảy sinh … Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong

lịch sử, các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở quá trình

hoạt động thực tiễn của loài người, nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát

triển của thực tiễn đề ra.

Thực tiễn có vai trò to lớn đối với nhận thức:

Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Hoạt động thực tiễn của con

người ngay từ đầu đã bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Muốn sống,

muốn tồn tại, con người phải sản xuất, cải tạo tự nhiên và xã hội. Chính nhu cầu

sản xuất vật chất, cải tạo xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận

thức thế giới xung quanh. Rõ ràng con người quan hệ với thế giới xung quanh

không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng và thông qua thực tiễn. Bằng hoạt

động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới

khách quan phải bộc lộ những thuộc tính, những tính chất, những quy luật để

con người nhận thức. Chính thực tiễn đã cung cấp cho nhận thức của con người

những hiểu biết về thế giới. Như vậy, mọi tri thức của con người, xét đến cùng

đều bắt nguồn từ thực tiễn.

Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của

nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới. Thực

tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát

triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp nhận thức của con người

đạt hiệu quả hơn. Bởi lẽ, chính trong hoạt động thực tiễn, con người cũng cải

biến luôn chính bản thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ của mình. Hoạt động

thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ

trợ con người trong quá trình nhận thức. Chính nhu cầu chế tạo và cải tiến công

cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức đã thúc đẩy

nhận thức, tư duy phát triển.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức của con người là nhằm

phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhận thức mà không

nhằm mục đích phục vụ thực tiễn thì sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức

khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được áp dụng vào thực

tiễn, nghĩa là được vận dụng vào sản xuất vật chất, vào cải tạo xã hội và vào

thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ con người.

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý không phải là cái gì đó hiển

nhiên, không phải cái có ích, có lợi. Chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về

số đông. Chân lý là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và được

thực tiễn kiểm nghiệm. Bởi lẽ chỉ có bằng và thông qua thực tiễn con người mới

vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó khẳng định được

chân lý, bác bỏ được sai lầm.

Thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối, vừa

có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khách quan chân lý

bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi,

phát triển. Do đó, với tư cách là tính chất chân lý nó cũng không đứng im mà

luôn thay đổi.