PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TÂM LÝ XÃ HỘI VÀ HỆ TƯ TƯỞNG, TẠISAO TÂM L...

Câu 31: phân tích mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, tại

sao tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai giai đoạn thấp và cao của ý thức xã

hội nhưng lại không trực tiếp sinh ra hệ tư tưởng?

Quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập

quán... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành

dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống

đó.

Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh

sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi

lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ,

rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.

Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính

kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố trí tuệ đan xem với yếu

tố tình cảm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội

trong sự phát triển của ý thức xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí

Minh rất coi trọng việc nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu

nhân dân, giáo dục nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc

đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.

Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống

những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo),

kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình

thành một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp

nhất định và được truyền bá trong xã hội.

Cần phải phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học.

Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất

của xã hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật

chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.

Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng

lớn đến sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy

tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá

trình khái quát những tài liệu khoa học.

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức

phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại

với nhau, chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã

hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ

tư tưởng của giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng

khoa học tiến bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động và phong

phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại

hệ tư tưởng, lý luận xã hội, gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng

khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành

mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích

thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.

Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không

phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.

Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng

thời cũng kế thừa những học thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn

tại trước đó. Thí dụ, hệ tư tưởng tôn giáo thời trung cổ ở Tây Âu thể hiện lợi ích

của giai cấp phong kiến, nhưng lại ra đời trực tiếp từ những tư tưởng triết học

duy tâm có từ thời cổ đại và những tư tưởng của đạo Cơ đốc thời kỳ đầu Công

nguyên. Hệ tư tưởng Mác - Lênin cũng không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội

của giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà

là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh

nghiệm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, đồng thời kế thừa

trực tiếp các học thuyết kinh tế - xã hội và triết học vào cuối thế kỷ XVIII, đầu

thế kỷ XIX...

Như vậy, hệ tư tưởng xã hội liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác

động của tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự "cô đặc" của tâm lý

xã hội.