HÃY PHÂN TÍCH NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA TRIẾT HỌC CÂU NÓI CỦA...

2. Các hình thức lịch sử của phép biện chứng (Trang 109 – 115, cuốn 2, triết

học)

Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện

chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

a

Phép biện chứng chất phác

Là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó là một nội dung cơ bản trong

nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu

cho nhũng tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là "biến dịch luận”

(học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và "ngũ

hành luận" (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất

bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét

nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù "vô

ngã", "vô thường", "nhân duyên". Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện

một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ph.Ăngghen viết:

"Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm

sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên

cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng...” Cái thế giới quan

ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các

nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit trình bày một cách

rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi

đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi sự vật đều không ngừng phát sinh và

tiêu vong"'. Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang

tính chất ngây thơ, chất phác. Ph.Ăngghen nhận xét: "Trong triết học này, tư duy

biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi

những trở ngại đáng yêu... Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,

phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một

chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thế ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa

các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết: đối với họ, mối liên

hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Phép biện chứng chất phác cổ đại

nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài,

bằng trực quan chất phác, ngây thơ, còn thiếu sự chứng minh bởi những thành

tựu phát triển của khoa học tự nhiên.

Tổng kết lại, tuy phép biện chứng thời cổ đại nhận thức đúng về bản chất của

thế giới, nhưng lại nghiên cứu bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác,

ngây thơ, chưa có sự chứng minh cụ thể của khoa học tự nhiên.

b

Phép bi n ch ng duy tâm

Tồn tại trong nền triết học cổ điển Đức; nó được hình thành trong nền triết

học của Cantơ, trải qua triết học của Phíchtơ và triết học của Senlinh. Sau cùng

được hoàn thiện trong triết học của Hegel.

Các nhà triết học này đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện

chứng duy tâm một cách có hệ thống. Phép biện chứng Hegel là hệ thống lý luận

về quá trình tự vận động, phát triển của ý niệm tuyệt đối. Phép biện chứng Hegel

bao gồm lý luận về tồn tại, lý luận về bản chất, lý luận khái niệm. Không chỉ có

Hegel các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng phép biện chứng duy tâm bằng

một hệ thống có logic. Vladimir Ilyich Lenin đã nói: “Hegel đã đoán được một

cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng, của thế giới, của giới

tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm”. Engels lại nhấn mạnh ý kiên của

Karl Marx: “Tình chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay

Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một

cách bao quát và có y thức những hình thái vận động chung của phép biến

chứng. Ở Hegel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó

lại là sẽ thấy được cái hạt nhận hợp lý của nó ở đàng sau cái vỏ thần bí của nó”.

Phép biện chứng duy tâm là phép biện chứng tư duy, là phép biện chứng của

khái niệm, nó mang tính tư biện, thần bí: phép biện chứng duy tâm là một hệ

thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên

hệ và sự vận động, phát triển diễn ra trong thế giới tinh thần, trong tư duy. Nó

vừa là một hệ thống lý luận khá hoàn chỉnh về mối liên hệ phổ biến và về sự

phát triển vừa là một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Phép biện chứng

duy tâm đã hòan thành cuộc cách mạng về phương pháp, nhưng cuộc cách mạng

đó xảy ra ở tận trên trời.

Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết

học Hégel là hạn chế cần phải vượt qua. C.Mác và Ăngghen đã khắc phục hạn

chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao

nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê

phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ăngghen tự nhận xét: "“…có thể nói

rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác

thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự

nhiên và về lịch sử”.

c

Phép biện chứng duy vật

C.Mác và Ph.Ăngghen cải tạo “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng duy

tâm Hêghen theo tinh thần triết học duy vật của Phoiơbắc, xây dựng phép biện

chứng duy vật. V.I.Lênin tiếp tục bảo vệ và phát triển nó. Đối với họ, “phép biện

chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”, “là môn khoa học về những quy luật

phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và

của tư duy”, “là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc

nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức con người,

nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”.

Phép biện chứng duy vật bao gồm phép biện chứng khách quan và phép

biên chứng chủ quan. Phép biện chứng duy vật là đỉnh cao của tư duy nhân loại,

mang tính tự giác, tính khoa học và tính cách mạng triệt để, và là công cụ hiệu

quả để nhận thức và cải tạo thế giới.