195.313 phụ nữ trong độ tuổi [39, tr.32]
Việc thực hiện có kết quả các nội dung cụ thể của chương trình Bồi dưỡng
nâng cao kiến thức và năng lực cho phụ nữ đã góp phần nâng cao kiến thức nhiều
mặt, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho phụ nữ, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, góp phần tích
cực xây dựng người phụ nữ mới, người lao động mới.
Chương trình hỗ trợ các hoạt động tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ
Trong bối cảnh đất nước mới chuyển sang thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý
và chính sách kinh tế mới, đời sống đại bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, một
bộ phận phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo ở nông thôn thiếu việc làm. Theo điều tra
xã hội học năm 1992, cả nước có trên 28% số hộ sống ở mức nghèo đói, 90% người
69
nghèo sống ở nông thôn. [39, tr.32] Trong đó, nguyên nhân cơ bản được xác định là
do thiếu vốn sản xuất, thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn hoặc không có nghề
nghiệp. Xuất phát từ thực tiễn đó, TW Hội và các cấp hội đã xác định địa bàn nông
thôn và phụ nữ nghèo là đối tượng chính của chương trình. Các hoạt động của
chương trình tập trung vào giải quyết những khó khăn cụ thể về vốn, kiến thức, kinh
nghiệm làm ăn, đào tạo nghề.
Có thể nói chương trình này là sự phát triển, bổ sung của chương trình “Phụ
nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” theo hướng giúp phụ nữ đi vào hoạt động kinh
tế, tìm cách tạo thêm việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập, giảm bớt
các gia đình nghèo khổ, góp phần ổn định đời sống, ổn định xã hội, thực hiện bình
đẳng về kinh tế cho phụ nữ. Với mục tiêu đó, đây là chương trình được các cấp Hội
xác định là mũi nhọn làm đòn bẩy thúc đẩy các chương trình khác.
Các cấp hội, đơn vị trực thuộc, các ban nữ công đã tập trung khai thác và
quản lý các nguồn vốn từ quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ ưu đãi các hộ nghèo của
ngân hàng nông nghiệp. Từ mô hình điểm “Nhóm phụ nữ tiết kiệm”, lấy hoạt động
tín dụng tiết kiệm làm trung tâm, lồng ghép các nội dung hoạt động khác của Hội
nhằm tạo ra một cơ chế quản lý đảm bảo an toàn nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu
quả trên cơ sở trách nhiệm và đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm, “Nhóm phụ
nữ tiết kiệm” phát triển mạnh ra diện, Hà Nội 100% các xã phường đã có 3770
nhóm. Đến năm 1996, hầu hết các tỉnh thành đều có nhóm Phụ nữ tiết kiệm và số
nhóm này tăng nhanh như: Quảng Trị 1.489 nhóm, Tuyên Quang 1405 nhóm, Bình
Định 1.312 nhóm. [39, tr. 6] Các “Nhóm phụ nữ tiết kiệm” làm ăn có hiệu quả, có
lãi, có vốn quay vòng nhanh và tạo được nguồn vốn bền vững, là sự khởi đầu cần
thiết của hoạt động tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây dựng Ngân hàng Phụ nữ sau
này. TW Hội tiếp tục phát triển Quỹ tình thương và phát động Ngày tiết kiệm vì phụ
nữ nghèo năm 1996 để phát triển nguồn vốn tín dụng cho phụ nữ nghèo đảm bảo
lâu dài, bền vững. Sau hai đợt phát động phong trào Ngày tiết kiệm vì phụ nữ
nghèo, cả nước đã vận động được 42,8 tỉ đồng. [38, tr.34] Cuối năm 1996, tổng số
vốn cho phụ nữ vay sản xuất kinh doanh qua tổ chức Hội phụ nữ các cấp là trên
70
Bạn đang xem 195. - CAU HOI TRAC NGHIEM LICH SU 12 GIAI DOAN 1919 1954