2. Vẻ đẹp độc đáo của mỗi đoạn
* Đoạn thơ cảnh ngày xuân
- Bức tranh thiên nhiên hiện lên qua nét vẽ vô cùng tinh tế kết hợp hình ảnh ước lệ,
ngôn ngữ tài hoa, uyên bác, bút pháp tả và gợi, nghệ thuật phối sắc tài tình
+ Bức tranh mùa xuân tháng ba, không gian khoáng đạt, trong sáng với những cánh
chim én rộn ràng bay liệng
+ Nhà thơ bày tỏ sự nuối tiếc khi thời gian mùa xuân qua nhanh chóng, ngày xuân
như “con én đưa thoi”
- Hai câu thơ kết tinh vẻ đẹp của mùa xuân: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê
trắng điểm một vài bông hoa”
+ Hai câu thơ diễn tả bức tranh tuyệt mĩ là chân dung của mùa xuân chỉ giản đơn là
hoa trắng, cỏ xanh nhưng gợi lên được bức tranh có hồn, khoáng đạt
+ Thảm cỏ non xanh chính là gam nền cho bức tranh mùa xuân trở nên đầy sức
sống, điểm xuyết một vào bông hoa lê trắng
+ Bức tranh mùa xuân của Nguyễn Du được dệt bằng những hình ảnh ước lệ và thi
liệu cổ song vẫn tươi mới, và mang vẻ đẹp riêng nhờ kế thừa, vận dụng sáng tạo
câu thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích- Lê chi sổ điểm hoa”
+ Bức tranh mùa xuân trong đoạn thơ mang đậm chất cổ thi, không gian không xác
định rõ ràng được nhà thơ thể hiện khéo léo bằng thể thơ lục bát tạo âm hưởng
mượt mà
- Bút pháp chấm phá, hình ảnh giàu sức gợi, ngôn từ hàm súc...
+ Sự kết hợp hài hòa giữa không gian rộng lớn ngút ngàn màu xanh cỏ cây, với
hình ảnh thu nhỏ trên một cành hoa xuân nhưng không cụ thể sắc xuân ở vùng
miền nào.
→ Ngòi bút của Nguyễn Du quả là tuyệt bút, ngòi bút của ông tài hoa, giàu chất
tạo hình của ngôn ngữ biểu cảm khi kết hợp tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con
người vui tươi phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên,
nhạy cảm với vẻ đẹp của tự nhiên
* Phân tích vẻ đẹp mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ
+ Bức tranh xứ Huế hiện ra qua ngôn từ đằm thắm, ngọt ngào bằng những chi tiết
hình ảnh thơ giản dị cùng nhạc điệu trong sáng, tha thiết đậm nét đặc trưng xứ Huế:
hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời...
+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thanh Hải mang tính cụ thể, xác thực
về không gian, ngôn ngữ thơ hiện đại, đặc biệt âm thanh tươi vui, rộn rã chứ kg
tĩnh lặng thể hiện niềm yêu đời, khao khát sống bất tận của nhà thơ
+ Cảm xúc của nhà thơ trước thiên nhiên, sự sống được thể hiện rõ nét qua câu thơ
"Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng” → Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác: âm thanh từ chỗ cảm nhận bằng thính giác nay chuyển sang cảm nhận
bằng thị giác thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ
Huế khi vào xuân
+ Thanh Hải sử dụng thể thơ ngũ ngôn gần với giọng điệu dân ca miền Trung tạo
ra âm hưởng nhẹ nhàng và tha thiết, thấm vào lòng người
+ Giọng điệu bài thơ phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của tác giả: hứng khởi, say
sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp đất trời xứ Huế vào xuân
→ Cả hai bức tranh xuân đều có những vẻ đẹp chung nhưng cũng ẩn chứa những
vẻ đẹp chung cũng như những nét riêng biệt độc đáo bởi mỗi nhà thơ có những
cảm nhận khác nhau
+ Hơn nữa, mỗi nhà thơ lại sống trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, có
những hoàn cảnh riêng khác nhau
+ Qua bức tranh thiên nhiên mỗi tác giả phác họa, ta thấy được tình yêu tha thiết
của các nhà thơ với thiên nhiên, cảm hứng thiên nhiên là cảm hứng bất tận.
III. Kết bài
- Khái quát về vẻ đẹp của hai bức tranh mùa xuân
- Khẳng định giá trị của đoạn thơ nói riêng, của hai tác phẩm nói chung trong việc
bồi đắp tư tưởng, tình cảm cho con người.
** Bài văn tham khảo:
Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như họa sĩ
dùng đường nét và màu sắc, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng
hình ảnh và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình - đặc biệt là diễn tả tình yêu thiên
nhiên, yêu cái men say nồng của sắc hương xuân. Hãy lật tìm trang sách đến với
bốn câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong kiệt tác Truyện Kiều của
Nguyễn Du hãy hòa nhịp tâm hồn vào đất trời xứ Huế với bốn câu thơ đầu trong
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, bạn sẽ thấy non sông gấm vóc, quê hương Việt
Nam đẹp biết bao!
Ngày xuân còn én dưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
và:
Mọc qiữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Nguyễn Du và Thanh Hải họ tuy không cùng một thế hệ thơ, hoàn cảnh
sống khác nhau nhưng trong tâm hồn cua những người nghệ sĩ ấy luôn tràn đầy
một tình yêu thiên nhiên đến lạ kì! Ngòi bút của các thi sĩ đã thăng hoa, đã đồng
điệu với vạn vật tự nhiên, thổi vào đó một tình yêu, ý xuân ngọt ngào say đắm. Sao
không yêu chứ, sao không ngây ngất chứ! Vẻ đẹp của xuân hương, xuân của lòng
người rộn ràng lắm, náo nức lắm.
Mùa xuân ấy là màu xanh bát ngát của sự sống, của chồi non lộc biếc đang
cựa quậy trong từng vần thơ. Hai nguồn cảm hứng ở hai thời đại cũng như những
sợi tơ lòng dệt nên những bức danh họa tuyệt đẹp của mùa xuân có hình khối màu
sắc, có xa, có gần, có tĩnh, có động, có âm thanh rộn rã, có tình người đắm say. Chỉ
một vài nét chấm phá mà sao hai bức tranh xuân ấy lại đẹp đến vậy.
Ở mỗi đoạn thơ lại có những nét riêng, độc đáo. Nếu như Nguyễn Du tài hoa,
uyên bác trong ngôn từ thì Thanh Hải lại đằm thắm, ngọt ngào với những vần thơ
đầy ắp hình ảnh. Nguyền Du khi gợi tả mùa xuân đã kế thừa và sáng tạo từ một câu
thơ cổ Trung Quốc Phương thảo thiên liên bích / Lê chi sổ điểm hoa. Nếu như nhà
thơ cổ Trung Quốc đã phác họa bức tranh xuân có màu cỏ xanh non, có vẻ đẹp của
mấy bông hoa lê trên cành thì Nguyễn Du lại thể hiện được cả sức xuân căng tràn,
dạt dào của cỏ... cỏ càng xanh hoa càng trắng, chỉ mấy chữ non, xanh, trắng mà
như chứa cả hương thơm, cả sắc màu, cả tình người gửi vào đó. Nguyễn Du báo tín
hiệu mùa xuân bằng én đưa thoi thì với Thanh Hải là một bông hoa tím biếc mọc
giữa dòng sông xanh. Nguyễn Du đã dùng không gian để vẽ thời gian. Thời gian
thấm thoắt đã trôi qua hai tháng, nhanh như thoi đưa, chỉ đọng lại ánh sáng rực rỡ,
cuối cùng của mùa xuân trong tiết thanh minh. Còn Thanh Hải với cách đảo động
từ mọc đã phác họa một hình ảnh rất ấn tượng về sự sống mãnh liệt của loài hoa
lục bình xứ Huế đang vươn lên giữa phông nền của dòng sông xanh căng tràn sức
sống. Nguyễn Du dùng những thi liệu là cỏ non, cánh én đưa thoi, thiều quang, hoa
lê trắng để vẽ nên bức tranh xuân cao rộng, thoáng đãng đầy thi vị thì Thanh Hải
đã dùng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền
chiện hót vang trời để làm nên cái độc đáo mà chỉ ở quê hương xứ Huế mộng mơ
mới có. Tiếng gọi của Thanh Hải ơi con chim chiền chiện hót chi nghe sao mà tha
thiết, ngọt ngào như con người xứ Huế vốn rất đẹp, rất chân thành đó thôi.
Bức tranh xuân của Nguyễn Du non xanh như tâm hồn của cô thiếu nữ
Thúy Kiều, Thúy Vân trong buổi du xuân. Bức tranh xuân của Thanh Hải tươi sáng,
ân tình, chứa chan cảm xúc, thấm thía lòng người. Tâm hồn họ đều thăng hoa, rất
thiết tha, nhưng mỗi người lại có một bút pháp nghệ thuật riêng để ghi đậm cái tôi
cá nhân trong lòng độc giả. Nếu như Nguyễn Du đã vận dụng khéo léo thể thơ lục
bát của dân tộc thì Thanh Hải cũng rất mượt mà với thể thơ ngũ ngôn ngân nga
như điệu nhạc xứ Huế trong bản hòa ca của đất nước đang xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
Nguyễn Du với mười lăm năm lưu lạc, còn Thanh Hải đang phải giáp ranh với cái
chết nhưng ở họ vẫn nồng cháy tình yêu thiên nhiên, đất trời. Tinh cảm ấy đã hòa
chung dòng chảy với các tác phẩm khác cùng viết về mùa xuân.
Đã nhiều năm trôi qua, nhưng khi đọc những dòng thơ trên, lòng người đọc
vẫn không khỏi xúc động, rạo rực, mê say. Có lẽ Nguyễn Du cũng như Thanh Hải
sẽ còn sống mãi trong trái tim người đọc bởi những vần thơ như thế, bởi tấm lòng
yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên, đất trời và con người tha thiết. Bởi ngòi bút của họ
đã thăng hoa thành những nét vẽ sâu sắc trong hồn ta một mùa xuân bất diệt, vĩnh
hằng và truyền vào lòng ta khát vọng được cống hiến, được làm Một mùa xuân nho
nhỏ / Lặng lẽ dâng cho đời...
Đề: Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ trong khổ thơ sau:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Gợi ý:
Bằng cách sử dụng các biên pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa,đối lập,
tương phản, phó từ chỉ sự tiếp diễn, đoạn thơ là cảm xúc, suy ngẫm của Thanh Hải
về đất nước:
Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, tổng kết về lịch sử bốn nghìn
năm của đất nước. Đó là "bốn nghìn năm” vất vả và gian lao”. Đất nước được ví
trở thành một người chị, người mẹ phải chịu đựng bao nhiêu những thăng trầm, vất
vả, nhẫn nại.
Mặc dù gặp qua bao gian lao vất vả, bốn nghìn năm lưng đeo gươm, chịu đựng biết
bao những thăng trầm của lịch sử song tác giả muốn phát hiện và tin tưởng vào
một tương lai của đất nước bằng nghệ thuật đối lập tương phản. Vì sao là những ví
sao tinh tú tuy nhỏ bé nhưng sáng mãi và lấp lánh trong vũ trụ bao la. Tác giả so
sánh đất nước Việt nhỏ bé như một ví sao tỏa sáng trên bầu trời. Nhà thơ so sánh vị
thế của đất nước ta cũng có sức tỏa sáng như vì sao. Tác giả bày tỏ niềm tin vào
một tương lai tươi sáng của đất nước ta, khẳng định vị thế của dân tộc, sự trường
tồn vĩnh cửu cùng thời gian. Qua phó từ "cứ” chỉ sự tiếp diễn, nhà thơ muốn nói
trong mọi hoàn cảnh, dù có khó khăn, gian khổ đến đâu nhưng không một kẻ thù
nào có thể ngăn cản được bước tiến của ta. Giọng thơ suy ngẫm chậm lại như một
lời tổng kết, khẳng định của Thanh Hải đó là niềm tự hào, niềm tin vào sức sống
trường tồn và tương lai tươi sáng của dân tộc
C. DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc".
(Ngữ văn 9, tập 2)
Từ ngữ liệu trên, hãy viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ về lẽ sống của thanh
niên trong trong thời đại ngày nay.
Bạn đang xem 2. - Đề cương ôn tập học kì 2 lớp 9 môn Ngữ văn