4.2.3 Nợ xấu trên tổng dư nợ
Bảng 20: Nợ xấu trên tổng dư nợ giai đoạn 2005 – 2007
CHỈ TIÊU ĐVT Năm
2005 2006 2007
Tổng nợ xấu Triệu đồng 1.227 1.115 4.053
Tổng dư nợ Triệu đồng 219.543 255.431 313.685
Σ Nợ xấu/Σ Dư
nợ % 0,56 0,44 1,29
(Nguồn: Phòng tín dụng NHN
O & PTNT huyện Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp)
Rủi ro tín dụng được đo lường bằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Chỉ số
này phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng một cách rõ rệt, nó đo
lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng, chỉ số này càng thấp cũng
có nghĩa là chất lượng tín dụng của Ngân hàng càng cao và ngược lại chỉ số này
cao thì chất lượng tín dụng càng thấp. Qua 3 năm hoạt động ta thấy tỷ lệ nợ xấu
của Ngân hàng biến động không đều, mặc dù không vượt quá mức cho phép của
Ngân hàng Trung ương là 5% nhưng trong những năm tiếp theo Ngân hàng cần
phải quản lý tỷ lệ nợ xấu chặt chẽ hơn để tăng vòng quay vốn tín dụng nhằm tăng
lợi nhuận cho Ngân hàng.
Tóm lại: trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng vậy mục tiêu cuối
cùng của các nhà đầu tư là tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro. Nhưng
giữa lợi nhuận và rủi ro luôn có sự song hành lẫn nhau, lợi nhuận càng nhiều thì
kéo theo đó rủi ro là một điều tất yếu không thể tránh khỏi. Do đó, chi phí cơ hội
của việc tạo ra lợi nhuận và rủi ro phải gánh chịu luôn được các nhà lãnh đạo
quan tâm trong mọi chiến lược kinh doanh. Riêng đối với hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro thường xuyên phát sinh và ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng và có thể nói tín dụng là hoạt
động hàng đầu quyết định đến sự tồn tại của Ngân hàng. Do đó, nhiệm vụ bảo
toàn vốn cho vay cả lãi và gốc là một vấn đề cần được quan tâm, xem xét tại mỗi
Ngân hàng.
Nhìn chung hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng qua 3 năm 2005-
2007 đều mang lại lợi nhuân và luôn tăng nhưng Ngân hàng đã chịu không ít khó
khăn và những hạn chế cần khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả khinh doanh
của mình, góp phần vào sự phát triển kinh tế của huyện. Cụ thể như sau:
Món vay của hộ nông dân thường nhỏ làm cho đồng vốn bị manh mún và
trãi dài trên địa bạn rộng, việc đi lại khó khăn dẫn đến chi phí của việc giải ngân
và thu hồi nợ cao. Đầu tư vào nông nghiệp nông thôn đồi hỏi phải có nguồn vốn
lớn nhưng tỷ lệ sinh lời thấp và vòng quay vốn chậm, chứa đựng rủi ro cao.
Phụ thuộc lớn vào nhân tố khách quan như thời tiết, bệnh dịch, giá cả,…
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Mặc dù Ngân hàng có sự đầu tư
vốn đúng hướng nhưng công tác thu nợ còn nhiều hạn chế cụ thể là vong quay
vốn tín dụng còn chậm, vốn vay từ cấp trên trong tổng nguồn vốn vẫn chiếm tỷ
trọng cao,vốn huy động tại chỗ còn hạn chế.
Bạn đang xem 4. - DE THI THU DAI HOC MON VAT LI VA DAP AN