2007/2006
2005 2006 2007 Số tiền % Số tiền %
Ngắn hạn 555 412 3.522 -143 -25,76 3.110 754,85
Trung hạn 672 704 531 32 4,76 -173 -24,57
Tổng nợ xấu 1.227 1.116 4.053 -111 -9,05 2.937 263,17
(Nguồn: Phòng tín dụng NHN
O & PTNT huyện Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp)
Quạn sát số liệu ở bẳng trên ta thấy tình hình nợ xấu theo thời hạn của
Ngân hàng có nhiều biến động không theo một chiều tăng hay giảm mà có sự
giảm xuống rồi sau đó tăng lên. Cụ thể, năm 2005 nợ xấu của Ngân hàng là 1.227
triệu đồng giảm xuống còn 1.116 triệu đồng vào năm 2006 tức giảm 111 triệu
đồng, tốc độ giảm 9,05% so với năm 2005. Nguyên nhân là do trong từng năm
Ngân hàng đều trích các khoản dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng (các khoản dự
phòng phải thu khó đòi) và các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch
toán nội bảng đem ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện
pháp để thu hồi nợ triệt để hơn và điều này đã góp phần tác động trực tiếp đến
công tác quản lý, nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro, xử lý kịp thời những
tổn thất có thể xảy ra từ hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Bước sang năm 2007,
tình hình nợ xấu có sự tăng lên và tốc độ tăng khá cao, tăng 263,17% tức tăng
thêm 2.937 triệu đồng so với năm 2006 với số tiền là 4.053 triệu đồng. Nguyên
nhân là do dư nợ tăng nhưng nguồn nhân lực không tăng mà còn giảm 2 biên
chế, có đến 3 cán bộ tín dụng phải phụ trách 2 xã nên vào thời gian cao điểm của
mùa vụ ( đông xuân và hè thu) với khoản thời gian ngắn mà phải tiến hành thẩm
định nhu cầu vốn vay và giải ngân (trung bình có 1.206 khách hàng / cán bộ tín
dung) nên một số cán bộ tín dụng thẩm định còn sơ sài, thiếu chặt chẽ do đó ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng.
Qua 3 năm hoạt động nợ xấu ngắn hạn của Ngân hàng cũng có sự biến
động. Năm 2005, nợ xấu ngắn hạn là 555 triệu đồng sang năm 2006 giảm xuống
còn 412 triệu đồng tức giảm 143 triệu đồng (25,76%) so với năm 2005 cho thấy
việc thu nợ của cán bộ tín dụng trong năm đạt kết quả tốt, hơn nữa khách hàng đa
phần kinh doanh theo thời vụ, thời gian ngắn, đồng vốn luân chuyển nhanh quan
hệ tín dụng tốt đối với Ngân hàng không có tình trạng chay ỳ không muốn trả nợ.
Bước sang năm 2007, nợ xấu ngắn hạn lại tăng lên với số tiền 3.522 triệu đồng,
tăng thêm 3.110 triệu đồng tức tăng 754,85% so với năm 2006. Nguyên nhân là
do sự tăng lên của nợ xấu xuất khẩu lao động chiếm đến 46% trong tổng nợ xấu
của đơn vị.
Cho vay trung hạn luôn chứa đựng rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn. Ta
thấy nợ xấu trung hạn trong năm 2005 là 672 triệu đồng cao hơn nợ xấu ngắn
hạn, nguyên nhân là do cho vay trung hạn có thời hạn dài nên số nợ đến hạn tuy
không nhiều nhưng khoản vay tương đối lớn cộng thêm công tác thu nợ của
Ngân hàng gặp nhiều khó khăn vì một số hộ mới bắt đầu kinh doanh chua có
kinh nghiệm, hiệu quả kinh tế thấp ảnh hưởng đến việc trả nợ. Điều này cho thấy
chất lượng tín dụng trung hạn đạt hiệu quả thấp hơn tín dụng ngắn hạn. Chúng ta
đều biết, các khoản vay trung hạn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro vì có thời hạn tương
đối dài nên việc kiểm tra sau khi cho vay phải tiến hành nhiều lần và trong thời
gian tới những món nợ này sẽ đáo hạn nhiều, phát sinh nhiều nợ quá hạn đó cũng
là lý do làm cho nợ xấu trung hạn trong năm 2006 tăng lên 704 triệu đồng tức
tăng 32 triệu đồng (4,76%) so với năm 2005. Nhận thấy được đều này, Ngân
hàng đã tập trung đầu tư vào cho vay ngắn hạn giảm tỷ trọng cho vay trung hạn
đồng thời đẩy mạnh công tác thu nợ và xử lý nợ rủi ro nên nợ xấu ngắn hạn trong
năm 2007 giảm xuống còn 531 triệu đồng, giảm 173 triệu đồng (24,57%) so với
năm 2006.
Tóm lại, tình hình nợ xấu theo thời hạn của Ngân hàng qua 3 năm 2005-
2007 là không ổn định. Nợ xấu ngắn hạn có chiều hướng tăng và có tỷ trọng cao
hơn nợ xấu trung hạn đặc biệt là năm 2007 điều này nói lên hoạt động tín dụng
ngắn hạn đã mang lại hiệu quả không cao mặc dù vẫn có lợi nhuận trong kinh
doanh vì vậy trong tương lai Ngân hàng cần kiểm sót chặt chẽ hơn nữa khi quyết
định cho vay để kiếm thêm thu nhập. Bên cạnh đó cho vay trung hạn tiềm ẩn
nhiều rủi ro, nợ xấu lại chiếm tỷ trọng cao cho thấy Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó
khăn cho hoạt động tín dụng của mình trong trung hạn. Do đó, Ngân hàng cần
quan tâm nhiều hơn nữa khi xem xét cho vay, thường xuyên kiểm tra quá trình sử
dụng vốn của khách hàng để có kế hoạch xử lý kịp thời các khoản nợ có vấn đề.
Bạn đang xem 2007/ - DE THI THU DAI HOC MON VAT LI VA DAP AN