TUY ĐIỀU KIỆN ĐÓN TIẾP, TỔ CHỨC BỐC DỠ HÀNG CÓ NHIỀU KHÓ KHĂN NHƯN...

41, tuy điều kiện đón tiếp, tổ chức bốc dỡ hàng có nhiều khó khăn nhưng bến vẫn đảm bảo được, chưa thấy địch có

phản ứng gì, vẫn còn là nơi địch sơ hở. Thường vụ Đảng ủy và Tư lệnh quân chủng có trao đổi và quyết định

chuyến đi thứ hai của tàu 41 vào bến Vũng Rô.

Thuyền trưởng Tàu 41 đề nghị trong chuyến đi thứ hai vào bến Vũng Rô ngoài vũ khí cần chở thêm cho bến

một số gạo để lực lượng bến có gạo ăn đủ sức làm nhiệm vụ, lúc này ở bến Vũng Rô cán bộ, chiến sĩ đang thiếu

gạo ăn phải ăn trái sung. Tư lệnh Hải quân quyết định : Giao nhiệm vụ cho tàu 41 tiếp tục đưa hàng vào bến Vũng

Rô lần thứ hai, trong chuyến đi này ngoài số hàng là vũ khí gửi thêm 3 tấn gạo cho lực lượng bến.

Sau khi có quyết định của Tư lệnh, Tàu 41 lo xuống hàng, ngoài vũ khí , tàu cử đồng chí Lộc – Thuyền phó

hậu cần lo tiếp nhận vận chuyển 3 tấn gạo tám thơm xuống tàu. Gạo để nơi khô ráo nhất trong khoang hàng đề

phòng gió mùa đông bắc tạt nước lên ẩm ướt.

Chuyến đi này, Bộ gửi tăng cường cho bến 4 đồng chí: Bình, Khuê, Ân và Long.

Trên đường hành trình, một vài lần máy bay địch quần lượn, 2 lần thay đổi hướng đi tránh tàu buôn và tàu địch có

lúc tưởng như sắp xảy ra chiến đấu. Cán bộ, chiến sĩ tàu tập trung xử lý tình huống. Sau 4 ngày đêm vật lộn với

song to gió lớn của mùa gió đông bắc, chuyến đi tuy gặp một vài tình huống phải xử lý nhưng thuận lợi.

Ngày 25/12/1964 khi cách mũi Nạy chừng ½ hải lý, tàu nhận được tín hiệu của bến. Một chiếc ghe máy dẫn

đường đưa tàu vào giữa vịnh lúc 24 giờ. Tàu 41 vào nơi trú đậu.

Mọi công việc lại tấp nập khẩn trương: Ngụy trang tàu trước khi trời sáng, tổ chức lực lượng chốt chặn các

hướng trọng điểm, chuẩn bị dân công bốc dỡ hàng. Việc bốc dỡ hàng chuyến này phức tạp hơn do đoạn đường xa

và phải vận chuyển tới nơi cất giấu trong đêm.

Thuyền trưởng Tàu 41 báo cáo với đồng chí Trần Suyền: Tàu 41 ngoài hàng vũ khí còn 3 tấn gạo tám thơm

từ miền Bắc đưa vào dành riêng cho lực lượng bến, đề nghị xuất cấp để lực lượng bến ăn lấy sức bốc dỡ hàng.

Chuyến thứ hai nhờ có chiếc cầu tàu bằng cây rừng làm tạm nên việc bốc dỡ hàng thuận lợi hơn . 3 giờ sáng

, hàng đã được bócc dỡ song, 3 tấn gạo tám thơm dưới hầm hàng được bốc lên phân phối cho các đơn vị.

Tàu rời bến, theo tàu có anh Trần Ngọc Quang sau khi đã làm xong việc ở bến.

*Chuyến thứ ba – Tết ở Vũng Rô .

Cuối năm 1964, sau hai chuyến tàu vào Vũng Rô thắng lợi, Tư lệnh Hải quân giao tiếp nhiệm vụ cho tàu 41:

“Đảng ủy Và Tư lệnh Quân chủng quyết định Tàu 41 khắc phục kho khăn để đưa hàng chi viện vào bến

Vũng Rô đúng giao thừa tết Ất Tỵ”

Cả Chi ủy, Chi bộ, Cán bộ thuyền tập trung lo chuẩn bị. Trong một cuộc họp toàn tàu, vấn đề nổi cộm lên là

làm sao đưa tàu vào bên đúng lúc giao thừa, tạo ra sự bất ngờ đối với địch , nhiều biện pháp được nêu ra, Thuyền

trưởng kết luận và thong qua quyết tâm thư gửi lên cấp trên.

Công tác chuẩn bị cho chuyến đi hoàn thành sớm hơn dự định một ngày. Ngoài hàng chi viện, quà đón Xuân

vui tết có bánh chưng , bánh tét , bia rựơu, thịt mỡ dưa hành ,chè, thuốc lá,… và một cành đào nhật Tân để khi vào

bến, tàu cùng bến ăn tết.

Ngày28/1/1965 tại cảng Bính Động – Hải Phòng, Tàu 41 rời bến trong mùa gió đông bắc rét buốt. Tư lệnh

Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy Đoàn 125 ra tiễn. Đi theo tàu lần này có 4 đồng chí cán bộ tăng cường cho

bến là các đồng chí Cảnh , Kiến , Võ và Kỉnh.

Sau 3 ngày vượt song to gió lớn, thời tiết cực xấu, lách tránh các tàu tuần tiễu của địch, trưa ngày 30 tháng

chạp, Tàu 41 chuyển hướng vào bờ. Đây là tuyến đi căng thẳng nhất của lộ trình. Tàu có thể vào tới bờ nhưng cũng

có thể gặp địch phải đánh nhau. Vì phải tránh tàu cá của dân nên đến 17 giờ tàu còn cách bờ đến 60 hải lý, khả năng

vào bến trễ giờ, do đó phải sử dụng tốc đọ dự bị. 23 giờ 50 phút ngày 01/02/1965 tàu thả trôi giữa Vịnh Vũng Rô.

Thuyền trưởng cho thả xuồng và cử người vào bến tìm bộ phận đón. Đúng lúc thuyền của lực lượng bến cập mạng

tàu, từ bót Pơ – ti trên đèo Cả, địch đón giao thừa Xuân 1965, hàng lọat súng nổ vang , đèn dù xanh, đỏ địch bắn

phụt lên bầu trời sáng rực.

Giao thừa xuân Ất Tỵ đã đến, từ dưới phòng báo vụ vang lên lời Bác Hồ chúc tết. Khẩn trương đưa tàu vào

dấu và ngụy trang. Sáng mồng một Tết dưới vòm lá ngụy trang của tàu đã diễn ra một cuộc liên hoan mừng Xuân

Ất Tỵ. Bến và tàu cùng vui Tết.

Tối mồng một, tàu và bến bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng không đủ sức cho số đông

người đi lại nên hầu hết các anh chị em dân công phải dầm mình dưới nước để chuyển hàng. Hàng bốc dưới tàu lên

là vũ khí thuốc men; hàng trên bờ xuống là cát dằn tàu để giữ tàu ổn định khi ra khơi gặp song to gió lớn.

Trước giờ tàu rời bến, một cô dân công đã gửi cho Tàu 41 mang ra Bắc nắm đất Vũng Rô, đất của kiên

cường, bất khuất, ăn sung thay gạo nhưng một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ để đánh thắng quân thù. Kỷ vật ấy hiện

được bảo tàng Hải quân lưu giữ; và tại nhà truyền thống lữ đoàn 125 Hải quân có bức tượng người gửi – nhận nắm

đất Vũng Rô bằng chất liệu đồng đen.

Tàu 41 rời bến Vũng Rô vào 3 giờ sáng ngày 03/02/1965 (tức mồng 2 tết Ất Tỵ)

*Chuyến thứ tư – Sự kiện Tàu 143 bị địch phát hiện tháng 2/1965.

Ngày 01/02/1965 (nhằm ngày mồng 8 tết Ất Tỵ), Đảng ủy Bộ tư lệnh Hải quân, trực tếp là Đoàn 125 triển

khai giao nhiệm vụ tàu 143 do thuyền trưởng Lê Văn Thêm phụ trách chở 63 tấn hàng vào Bình Định.

Tàu xuất bến, song do tình hình hoạt động của địch trên biển nên không thể đi tiếp, phải dừng lại đảo Hải

Nam 10 ngày chờ thời cơ.

Đến ngày 10/02/1965, Tàu mới rời bến Hải Nam. Sau 2 ngày lênh đênh, luồn lách địch trên biển, do tình

hình bến Bình Định gặp khó khăn , Sở chỉ huy quyết định không cập bến theo dự kiến và điện cho HB16( Bến

Vũng Rô) chuẩn bị tiếp nhận chuyển hàng ngoài kế hoạch vào Vũng Rô.

Tàu 143 lần đầu cập bến Vũng Rô (khác với Tàu 41) luồng lách, bến bãi chưa thông thạo.

Do bãi Chính mới nhận xong chuyến 3, vị trí cất giấu hàng hạn chế, để phân tán hàng vào bến, Ban chỉ huy

bến quyết định xuống hàng vào bãi Bàng (điểm cận kề bãi Chính về phía Nam).

Vì tình hình đặc biệt, Sở chỉ huy điện cho HB16 bằng mọi cách phải tập trung lực lượng bốc dỡ hàng trong

đêm kịp cho Tàu rời bến không dừng lại qua ngày như các chuyến Tàu 41 trước đó.

Sau khi tàu vào bến, qua một ngày đêm bốc dỡ hàng vào bãi, đến 3 giừ 30 sáng ngày 16/02 thì hoàn thành

việc xuống hàng.Tàu 143 có đủ thời gian nhổ neo rời bến, song do tời neo hỏng, thủy thủ phải hì hục sửa chữa đến

5 giờ sáng mới xong. Trời sáng tàu không còn thời gian rời bến ,phải dừng lại trong ngày.

Theo phương án đã chuẩn bị tàu trú tại bãi Chùa và được ngụy trang. Một ngày lưu lại bến và tàu vô cùng

căng thẳng.

Vào trung tuần tháng 02, lúc Tàu143 cập bến Vũng Rô cũng là thời điểm lực lượng vũ trang Khu 5 đánh vào

căn cứ Dương Liễu và đánh giao thong chiến ở đèo Nhông. Địch thương vong nhiều.

10 giờ 30 sáng ngày 16/02/1965, một chiếc UH – 18 chở thương bay từ Qui nhơn đi Nha Trang, khi qua

vùng biển Vũng Rô, viên phi công Giêmơ Bao Ơ nhìn thấy một “mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía Tây vũng

Rô”, đến 11 giờ sáng ngày 16/02/1965, địch điều một máy bay trinh sát đến Vũng Rô lượn nhiều vòng quan sát và

chụp ảnh.

Bến nhận định có khả năng Tàu 143 bị lộ. Chỉ huy bến cho dừng công tác vận chuyển, lực lượng K60 khẩn

truơng triển khai nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch, lực lượng dân công tiếp tục ngụy trang hàng nơi cất

giấu.

13 giờ ngày 16/02/1965, hai chiếc trực thăng vũ trang của địch vòng lượn phía Bãi Môn, một máy bay trinh

sát lao tới ném 1 quả pháo mù xuống “mỏm đá lạ” nghi ngờ. Tiếp theo hai chiếc AD – 6 tới ném xuống một loạt

bom xăng. Lá ngụy trang trên Tàu 143 bị cháy. Tàu 143 hoàn toàn bị lộ, mũi chìm xuống biển.

Về phía ta, Chỉ huy tàu quyết định cho nổ phá tàu, xóa dấu vết. Nhưng đến ngày17/02/1965 kíp nổ mới

chuyển vào Bến (do máy bay địch thả pháo sáng suốt đêm). Đêm ngày 17/02/1965, một tiểu đọi công binh của

Quân khu được phải xuống dùng thuyền chở một lực lượng thuốc nổ ra phá hủy tàu. Tuy đã dùng một lượng thuốc

nổ khá lớn , gây nổ bằng nụ xòe và dây cháy chậm nhưng do khối nổ không hết, Tàu chìm không xóa triệt để dấu

vết.

Lúc này, Ban chỉ huy bến nhận định: “ Thế nào địch cũng quyết đổ bộ để chiếm tàu lấy vũ khí của ta cất

giấu trên bờ. Bãi Chính là bãi đổ bộ của địch, ta phải đánh,diệt nhiều địch ở đây. Bộ đội và du kích còn lại tranh thủ

chuyển hàng về phía sau. Số hàng không chuyển đi được thì phải phá hủy ngay trong đêm”. Ngay trong đêm , ta rút

tiểu đội đứng ở bãi Lau về bãi Chính, điều động thêm một đội du kích xã Hòa Hiệp, một trung đội của đơn vị K60

chuẩn bị đánh địch ở bãi Chính.

Du kích và bộ đội tập trung K60 và K64 dựa thế núi hiểm trở, có nhiều hang đá, bố trí từng tổ trên đoạn

đường Bùng binh lên khu kho chính hang Vàng , bầu Lè.

Việc Tàu 143 bị địch phát hiện ở Vũng Rô tháng 2 năm1965 là một tổn thất quan trọng của công tác vận

chuyển chi viện chiến trường đường biển. Vụ Vũng Rô đã làm thay đổi tình thế. Yếu tố bí mật, bất ngờ đã không

còn. Kẻ địch đã rõ ý đồ của ta.

Từ sau “Sự kiện Vũng Rô” đến năm 1968, công tác vận chuyển bằng đường biển của Hải quân đã trải qua

một thời kỳ ác liệt và đầy gian truân. Đã tổ chức được 28 chuyến đi, bảy chuyến thành công , chở được 410 tấn vũ

khí cho chuyến trường, 7 chuyến xảy ra chiến đấu, những chuyến còn lại gặp địch phải quay về.

Từ chuyến đi đầu tiên cho đến ngày kêt thúc chiến tranh. Ta đã tổ chức đi 2290 lần chiếc tàu, vận chuyển

được 183013 tấn vũ khí đạn dược,82068 lượt cán bộ.

*Kết quả của việc đưa hàng chi viện từ miền Bắc vào cảng Vũng Rô .

Tàu 41 trong khoảng thời gian hai tháng (28/11/1964 đến 01/02/1965) đã liên tục 3 lần vào bến Vũng Rô

mang vào 200 tấn vũ khí và 8 cán bộ tăng cường cho bến. Tàu được Đảng và Nhà Nước phong tặng danh hiệu đơn

vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 11/01/1973 với lời tuyên dương: “Tàu 41 là một tập thể trung kiên ,

nêu cao truyền thống Anh hùng của Quân đội nhân dân , bền bỉ chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn bình tĩnh

dũng cảm vượt qua mọi hiểm nguy, mưu trí, táo bạo quyết giành thắng lợi , lập công xuất sắc, xây dựng đơn vị

vững mạnh về mọi mặt.”

Vận chuyển và tiếp nhận vũ khí tại Vũng Rô 1964-1965 là sự kiện lịch sử hào hùng, thể hiện tinh thần mưu

trí , dũng cảm, ý chí sắt đá của quân và dân ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hiệu quả chung nhất của tuyến vận tải bằng đường biển là góp phần đánh thắng Mỹ - ngụy, giải phóng hoàn

toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc

Câu hỏi 8: Phương án hoạt động của Khu ủy khu 5, kế hoạch của Tỉnh ủy Phú yên về cuộc Tổng tiến công

và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở khu 5, ở Phú Yên?

Trả lời

*** Phương án hoạt động của Khu ủy khu 5:

Quân khu chia chiến trường thành bốn hướng tiến công quân sự và khởi nghĩa giành chính quyền: