CÁC HỆ SỐ PHẢN ÁNH KHẢ NĂNG THANH TOÁN.HỆ SỐ KHẢ NĂNG THANH TOÁN H...

1. Các hệ số phản ánh khả năng thanh toán.Hệ số khả năng thanh toán hiện hành: Là mối quan hệ giữa TSLĐ và đầu tư ngắnhạn với các khoản nợ ngắn hạn. Nó thể hiện khả năng chuyển đổi của tải sản lưu độngthành tiền trong một khoản thời gian ngắn (< 1 năm) để đảm bảo cho việc thanh toáncác khoản nợ ngắn hạn. Với hệ số thanh toán hiện hành của năm 2009 là 2,92 lần vànăm 2010 là 1,72 lần.Như chúng ta đã thấy lượng tiền mặt của Coteccons là rất lớn, đều này dẫn tới việcphải tính toán sử dụng vốn lưu động cho có hiệu quả cao. Đối với năm 2009 thì quy môđầu tư chưa thực sự lớn. Tuy nhiên qua năm 2010 thì hệ số thanh toán hiện hành đãgiảm xuống 1,72 chứng tỏ Công ty đã đẩy mạnh vốn lưu động vào hoạt động kinhdoanh. Nếu công ty duy trì hệ số thanh toán hiện hành quá cao cũng không phải là tốt,vì như vậy đã có một số tiền (hoặc TSLĐ) được dự trữ quá lớn với tốc độ quay vốn lưuđộng chậm. TSLĐ dự trữ quá lớn phản ánh việc sử dụng vốn không hiệu quả.Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Hệ số khả năng thanh toán hiện hành chưa bộc lộhết khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư, các nhà cho vay luôn đặt racâu hỏi: Nếu tất cả các món nợ ngắn hạn được yêu cầu thanh toán ngay thì khả năng tàichính của doanh nghiệp có đáp ứng được không? Nghiên cứu khả năng thanh toánnhanh sẽ trả lời được câu hỏi này. Với hệ số thanh toán nhanh của năm 2009 là 2,34 lầnvà năm 2010 là 1,33 lần. Điều này chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh của Cotecconslà rất tốt. Tuy nhiên hệ số này sang năm 2010 đã giảm rõ rết. Điều này chứng tỏ Côngty đã dần đưa dòng vốn vào đầu tư nhiều hơn. Nói chung hệ số này biến động từ 0.5 –1 là bình thường, nhưng cần lưu ý đến: báo cáo kinh doanh của doanh nghiệp và cơ cấutài sản lưu động cũng như phương thức thanh toán mà khách hàng được hưởng. Tuynhiên theo kinh nghiệm cho thấy nếu hệ số thanh toán nhanh < 0,5 lần thì công ty nhấtđịnh sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.