1959 ĐÃ TẠO RA NHỮNG TIỀN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG VIỆC XÁC LẬP QUAN...

1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở

hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất

bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta

đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản

xuất XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu.

b. Giai đoạn 1959 - 1960

Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến

công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả

nước đi lên CNXH.

Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần

kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế

độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định "Kinh tế

quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân".

Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các

nhà tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể;

sở hữu tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực

hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải

tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý

nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo.

c. Giai đoạn 1980 - 1986

Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản

chất của sở hữu toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến

pháp 1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối

với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của

công dân. Trong đó ưu tiên sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tại điều 18 hiến

pháp 1980 quy định:"Thiết lâp và củng cố chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản

xuất nhằm thực hiện một nền KTQD chủ yếu có hai thành phần: Thành phần

kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế HTX thuộc

"sở hữu tập thể của nông dân lao động".

Tóm lại, trước khi tiến hành đổi mới Đảng và Nhà nước ta chủ trương

xây dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN với hai hình thức sở hữu toàn

dân và sở hữu tập thể, hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bước

quá độ để đi đến sở hữu toàn dân. Đánh giá một cách khách quan thì với hình

thức sở hữu toàn dân và tập thể đã đóng góp và phát huy vai trò to lớn nhằm

phát huy sức mạnh tổng hợp kinh tế - xã hội để toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân ta chiến thắng trong đấu tranh giành chính quyền (1945) và trong kháng

chiến chống đế quốc Pháp, và Mỹ... Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ

lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp

kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt

tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của

chủ nghĩa Mác - Lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN.

Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao

động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi

phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không

biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với

các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người lao động phụ

thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong "tuyên ngôn Đảng cộng sản" đã

chỉ ra "Chúng tôi cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của công nghiệp

đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi".

Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính ưu việt của kinh tế

quốc doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế: Năng suất lao động

thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận

sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng vội muốn có ngay CNXH và vận dụng

quy luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản

xuất). Từ đây, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam được

tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại

hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều

thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo

định hướng XHCN.