VỚI SỰ XUẤT HIỆN CỦA TẦNG LỚN THƯƠNG NHÂN). DO NĂNG XUẤT LAO ĐỘNG ĐÃ...

3,với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao

hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v...

Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt

của cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) lại có những người do

yếu kém mà nghèo đói... Tất cả đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội

và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc

đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có

một tổ chức đặc biệt ra đời, tựa hồ như đứng trên xã hội và quản lý xã hội.

Đó là Nhà nứơc.

Sơ đồ vắn tắt: Sở hữu tư nhân và các hình thái chủ yếu của nó.

I. Hình thái sở hữu tư nhân đơn giản.

Các quan hệ phân công

Người sở hữu A

Người sở hữu B

(Người sản xuất hàng hoá)

lao động xã hội

Sở hữu thực tế

Hàng hoá B

Các quan hệ sở hữu

Hàng hoá A

II.Hình thái sở hữu tư nhân TBCN

(Nhà tư bản)

Tư liệu SX và TD

Sức lao động

III. hình thái nhà nước của sở hữu tư nhân đơn giản

Sở hữu kinh tế

(Nhà nước - người SX hàng hoá)

Hàng hoá A

IV. hình thái nhà nước của sở hữu tư nhân TBCN

(Nhà nước - nhà tư bản)

(Người lao động làm thuê)

Tư liệu SX và tư liệu SH

Sức lao động

Qua sơ đồ trên cho ta thấy sở hữu tư nhân trong các phương thức sản

xuất khác nhau của lịch sử phát triển của loài người với tính chất và mức độ

thể hiện khác nhau:

* Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì

và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã

hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được

xem là người). ở đây, trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc

nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối.

* Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở

chế độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và

pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa

phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông

dân và giai cấp phong kiến.

* Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong

kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm

hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư

(do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không)

ở đây là giai đoạn của trình độ tư hữu gắn với đặc trưng của xã hội tư

bản. Chế độ tư hữu được qui định là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Giai cấp

tư sản với phương pháp, thủ đoạn bóc lột mới với trình độ cao tư hữu trong xã

hội tư bản chủ nghĩa nằm chủ yếu tập trung trong tay giai cấp tư sản, các tập

đoàn tư bản, các nhà tư bản nắm trong tay tư liệu sản xuất.

* Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác - Lê nin thì có 2 phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những

nước như nứơc ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai

đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại

của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân

để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế

hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết

cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở

nước ta hiện nay nhằm phát triển lực lượng sản xuất thì sở hữu nhà nước, kinh

tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói

riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo.

Chính C.Mác và F. Ănghen trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng cộng

sản, ông đã nhấn mạnh "chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm

hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao

động của người khác".

b. Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.

Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: "Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết

lâp ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất"

Sự bình đẳng về mặt xã hội của con người trong mối quan hệ qua lại của

họ đối với tư liệu sản xuất tức là sự chiếm hữu mà tiêu chí duy nhất của nó là

lao động sống. Sự khẳng định mình như là một chế độ sở hữu. Sự bất bình

đẳng xã hội cho phép một số người này (người chủ sở hữu) chiếm đoạt lao

động của những người khác (những người không phải là chủ sở hữu) được coi

là chế độ sở hữu. Tùy thuộc vào khả năng chiếm đoạt lao động của mình hay

của người khác mà phân ra 2 kiểu chế độ sở hữu: chế độ tư hữu mang tính bóc

lột dựa trên lao động của người khác và chế độ tư hữu lao động dựa trên lao

động của chính bản thân mình. Kiểu chế độ tư hữu thứ hai, chẳng hạn như

các điền chủ hiện nay không sử dụng hoặc hầu như không sử dụng lao động

làm thuê, ngày nay có thể liên kết vào các hệ thống kinh tế cả TBCN và

XHCN. Trên phương diện chủ thể, chế độ tư hữu phân chia thành tư hữu cá

nhân và tư hữu tập thể bao gồm cả sở hữu tập thể cổ phần - sở hữu toàn dân

và sở hữu tập thể lao động.

Chế độ tư hữu được đem so sánh với chế độ công hữu. Thực chất của sự

so sánh là ở chỗ: Sở hữu nhà nước không phải mọi lúc mọi nơi đều có nghĩa

là sở hữu công cộng. Vấn đề không chỉ ở chỗ chế độ công hữu có thể có hình

thức. Sở hữu nhà nứơc và sở hữu tập thể, mà còn ở trong bản chất của chính

các quan hệ xã hội. Quốc hữu hoá được coi là phương thức, biện pháp cải tạo

chế độ tư hữu thành sở hữu nhà nước, là việc làm mang tính chất chính trị

pháp lý. Việc làm này có ý nghĩa xã hội hoá sản xuất một cách hình thức,

nghĩa là chỉ làm thay đổi các quan hệ sản xuất về mặt pháp lý sao cho phù

hợp ý chí của Nhà nước làm luật. Vì vậy ngày nay quan hệ sở hữu XHCN và

quan hệ sở hữu TBCN đều có sở hữu nhà nước. Sở hữu nhà nước trở thành

chế độ công hữu XHCN chỉ khi thực hiện được xã hội hoá sản xuất thực sự.

Sẽ diễn ra một sự cải tiến tận gốc các quan hệ sở hữu mà bản chất XHCN của

chế độ sở hữu, được thẻ hiện thông qua lợi ích của những người lao động

(công dân, nông dân tri thức). Có thể nói rằng các mối quan hệ xã hội được

hình thành trên cơ sở xoá bỏ lao động làm thuê là biểu hiện trực tiếp không

chỉ riêng của chế độ sở hữu XHCN.

Qua phân tích trên ta có thể nhận xét như sau:

*Thứ nhất, cần phân biệt chế độ có tính chất bóc lột với chế độ sở hữu

lao động không mang tính bóc lột.

* Thứ hai, không phải chế độ công hữu tự nó, mà chính chế độ sở hữu

cá nhân nảy sinh trên cơ sở những thành tựu của thời đại TBCN với sự tất

yếu dẫn đến sự xoá bỏ chế độ tư hữu và khẳng định chế độ công hữu mới là

sự phủ định trực tiếp chế độ tư hữu TBCN.

* Thứ ba, chế độ sở hữu cá nhân có thể xem là chế độ tư hữu manh

mún, hay sở hữu cá nhân mang tính chất tiêu dùng và cũng có thể là chế độ sở

hữu mang tính chất sản xuất phát sinh từ chế độ công hữu.

* Thứ tư, chế độ công hữu không thể phát triển nếu không có chế độ sở

hữu cá nhân. Cũng như là việc quay trở lại sở hữu cá nhân trên cơ sở bổ xung

lẫn nhau của sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân lao động đó, trước hết là trong

hoạt động trí tuệ, tạo ra tiền đề cho sự hình thành cái mà theo C.Mác là"nhân

cách tự do" "Sự phát triển toàn diện của con người".

Cũng cần phải phân biệt chế độ công hữu XHCN (biểu hiện tập trung

của chế độ sở hữu xã hội), với chế độ sở hữu công, công của tất cả các thành

viên xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đối với mọi của cải xã hội

(không có sự phân biệt thành phần, không ai có đặc quyền đặc lợi, mọi người

đều bình đẳng, hành vi của mọi người do các quy phạm xã hội điều chỉnh...).