19,4%; những người mắc bệnh do nhiễm chì chiếm 67,7%. Hay đối với các làng
nghề Bắc Ninh, điển hình như làng nghề Phong Khê, Phú Lâm có khoảng 50 xí
nghiệp, với 70 phân xưởng sản xuất, khối lượng hàng hóa từ 18.000 đến 20.000 tấn
sản phẩm/năm, nhưng đồng thời thải vào môi trường 1.200 đến 1.500 m3 nước
thải/ngày với hàm lượng coliform lớn hơn TCCP hơn 100 lần. (nước thải có chứa
chủ yếu là xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông, phẩm màu).
Những đề tài này nhìn chung đã giải quyết được vấn đề lý luận cơ bản về các
làng nghề, hiện trạng và xu hướng phát triển, vấn đề ô nhiễm môi trường và một số
giải pháp. Nhưng các đề tài đi sâu vào một làng nghề nào đó thì hầu như chưa
nghiên cứu một cách toàn diện nhất. Mỗi khu vực làng nghề có những điều kiện và
thực tế khác nhau cho sự phát triển và bảo nhau, vì vậy việc nghiên cứu cụ thể, chi
tiết để có thể đánh giá toàn diện về tiềm năng, thực trạng cũng như xu hướng của
các làng nghề có ý nghĩa quan trọng cả về khoa học và thực tiễn.
Nghiên cứu về các giải pháp: Hiện tại, đối với mỗi công trình nghiên cứu về
vấn đề môi trường làng nghề ít nhiều đều có đề cập đến các giải pháp khác nhau
nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững.
Tổng quát nhất có lẽ phải đề cập đến cuốn “Làng nghề Việt Nam và môi
trường” của Đặng Kim Chi và các cộng sự. Dựa trên cơ sở đã nghiên cứu tổng quan
về đặc điểm cũng như thực trạng sản xuất, hiện trạng môi trường các làng nghề, tác
giả đã đi đến các giải pháp chung nhất cho từng loại hình làng nghề. Ở đây cũng đề
cập đến việc định hướng xây dựng một số chính sách đảm bảo phát triển làng nghề
bền vững (như các chính sách về hỗ trợ tài chính, chính sách về thị trường, về cơ sở
hạ tầng, giáo dục môi trường…). Qua đó đề xuất các giải pháp, nhìn chung tập
trung vào hai nhóm chính là giải pháp kỹ thuật và giải pháp quản lý nhằm giảm
thiểu ô nhiễm môi trường cho các làng nghề. Các giải pháp này được đề cập cụ thể
hơn trong “Đề tài nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các
chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam”
(KC.08.09, 2005), cụ thể là các “Tài liệu hướng dẫn áp dụng các giải pháp cải thiện
môi trường” cho các làng nghề nhựa; chế biến nông sản, thực phẩm; thủ công mỹ
nghệ; dệt nhuộm.
Các nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên Hương, Trần Minh Yến, Đặng Vân
Trình… đã nêu trên đều có đề cập đến các giải pháp can thiệp.
Theo kết quả khảo sát của các tác giả tại 3 làng nghề điển hình thì tỷ lệ
những ý kiến trông chờ sự giải quyết ô nhiễm vào Nhà nước chiếm tới 56,6%; giải
pháp nâng cao nhận thức môi trường chiếm 14,8%; thông cảm và cùng người sản
xuất xử lý ô nhiễm chỉ có 8,5%, đặc biệt ý kiến nếu không xử lý ô nhiễm thì ngừng
sản xuất chỉ có 1,1%. Qua đó cho thấy rằng ý thức của cộng đồng trong vấn đề phát
triển kinh tế gắn với môi trường còn nhiều hạn chế, vấn đề xung đột môi trường có
nguy cơ khá cao và phức tạp.
Việt Nam cũng đang có nhiều cố gắng trong việc tiếp thu kinh nghiệm của
các nước đi trước trên thế giới và trong khu vực trong lĩnh vực quản lý môi trường.
Đối với môi trường làng nghề, năm 2005 Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp
với Ngân hàng thế giới (WB) cùng với Bộ Môi trường Hàn Quốc tổ chức Hội thảo
áp dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong quản lý môi trường các làng nghề truyền
thống Việt Nam.
Tại hội thảo, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã nêu rõ hiện trạng ô nhiễm môi
trường làng nghề và giới thiệu nghiên cứu điển hình “Cải thiện môi trường làng
nghề Vạn Phúc”. Các chuyên gia về môi trường của Hàn Quốc đã trao đổi về kinh
nghiệm, định hướng quản lý môi trường nông thôn và giới thiệu công nghệ môi
trường của Hàn Quốc. Hơn nữa, kể từ khi Hiệp hội làng nghề Việt Nam được thành
lập (2005) cho đến nay đã có nhiều chương trình hoạt động cụ thể nhằm cải thiện về
mặt chính sách, ủng hộ về nguồn vốn, nâng cao kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị
trường, tạo thương hiệu cho sản phẩm, quan tâm đến vấn đề môi trường các làng
nghề,… khuyến khích phát triển làng nghề về nhiều mặt.
Bạn đang xem 19, - KIỂM TRA HỌC KỲ II NĂM HỌC:2010-2011 MÔN: TIẾNG ANH- MÃ ĐỀ: 295 PPTX