2.1. Hiệu quả sử dụng lao động.
Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất, góp phần
quan trọng cho nanưg lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động
hoặc hiệu suất tiền lương, năng suất lao động được xác định bằng cách chia kết quả
kinh doanh trong kỳ cho số lượng lao động bình quân trong kỳ.
Kết quả kinh doanh được phản ánh bằng ba mục tiêu: tổng giá trị kinh doanh;
giá trị gia tăng; lợi nhuận do đó có ba cách biểu hiện của năng suất lao động bình
quâncho một người lao động bình quân trong một kỳ (thường tính theo năm). Ta có:
doanh
qu¶ kinh
L§ KÕt
suÊt
N¨ng = L
§
Cụ thể:
Doanh
thu
Tính theo doanh thu:
L§
t¨ng
gia
trÞ
L§ Gi¸
Tính theo giá trị gia tăng:
nhuËn
L§ Lîi
Tính theo lợi nhuận:
Trong đó LĐ là số lao động.
Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử dụng
thời gian. Cụ thể vào số ngày bình quân làm việc trong năm (n), số giờ bình quân
làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp (g) và năng suất lao động bình
quân mỗi giờ (NS
g). Điều này được thể hiện trong công thức:
Năng suất lao động=n*g*NS
g.
s¶
qu¶
n
xuÊt kinh
¨ng n * g *
N =
Trong đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tính theo 3 tiêu thức: doanh
thu; giá trị gia tăng; hoặc lợi nhuận.
Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương được tính theo cách so sánh kết quả kinh doanh
với tổng tiền lương và các khoản tiền thưởng có tính chất trong kỳ (ký hiệu là tiền
lương).
Ta có: H iÖu suÊt tiÒn long = KÕt qu¶ kinh TiÒn l o ng doanh .
Điều này có nghĩa là hiệu suất tiền lương trong kỳ cho biết một đồng tiền
lương tương ứng với bao nhiêu đồng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu
suất tiền lương tăng lên khi năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ
tăng tiền lương. Chẳng hạn, trong kỳ nghiên cứu năng suất lao động tăng 10%, tiền
lương tăng 6%.
Bạn đang xem 2. - DE VA DAP AN KIEM TRA HKI DIA LY 7