THÌ PEGYLATED INTERFERON ĐƯỢC COI LÀ CÓ HIỆU NGHIỆM HƠN ĐỂ CHỮA...

2005, thì pegylated interferon được coi là có hiệu nghiệm hơn

để chữa trị gan viêm HBV kinh

niên, dùng riêng rẽ hay dùng phối hợp với lamivudine.

* Lamivudine (Epivir-HBV) là một tổng hợp nucleoside analog. Lamivudine ngăn cản hoạt tính

ghi chép đảo nghịch (reverse transcriptase activity) của cả HBV và HIV, ngăn ngừa tổng hợp dải

DNA của HBV.

* Adefovir dipivoxil (Hepsera), một nucleotide analog khác, là thuốc thứ 3 được công nhận để

chữa trị gan viêm mạn tính loại B sau interferon alpha-2b và lamivudine. Tương tự như

lamivudine, nó có hoạt tính với reverse transcriptase của HIV và DNA polymerase của HBV. Tuy

nhiên nó chỉ được dùng để chữa trị gan viêm mạn tính loại B cho người lớn mà cơ năng gan

được bù trừ (compensated liver disease) và bệïnh nhân đã được điều trị với lamivudine không có

kết quả dù cơ năng gan được bù trừ hay không. Gần đây dùng hỗn hợp cả hai thuốc lamivudine

và adefovir cũng đã được dùng cho nhiều trường hợp khi bệnh nhân phải chữa trị lâu dài hay là

ở những bệnh nhân mà thấy có sự lờn thuốc lamivudine khi bị bệnh gan viêm ở giai đoạn quá

nặng.

Gan viêm do siêu vi C (HCV)

Siêu vi này đã được nhận diện từ năm 1989 như có thể là nguyên nhân gây nên gan viêm không

phải là A cũng không phải là B, phát hiện sau những cuộc tiếp máu. HCV là một siêu vi thuộc họ

Flaviviridea, đơn dải, có bao. Hầu hết bệnh nhân HCV đều trở nên mắc bệnh mạn tính. đôi khi có

thể trở nên bị bệnh sơ gan và ung thư tế bào gan.

đến cỡ 20% trường hợp gan viêm cấp tính là thuộc HCV, với số tử vong lên dđến 20,000

trường hợp mới nhiễm bệnh mỗi năm, và cỡ 10,000 người chết hàng năm. Nếu không chữa chạy

cho có hiệu nghiêäm, số tử vong có thể tăng lên gấp ba trong vòng 10 đến 20 năm tới. HCV là lý

do dẫn đầu cho những giải phẫu thay gan trong nước Mỹ (7).

Dịch tễ học

Những yếu-tố gây bệnh chính là tiếp máu hoặc những chất dẫn xuất từ máu trước năm 1992,

chích thuốc vào tĩnh mạch hay xịt thuốc vào mũi, xâm mình hoặc khoan lỗ vào thân mình, liên hệ

tình dục khác phái một cách bừa bãi, huyết thẩm tách (hemodialysis) lâu dài, tiếp xúc với máu

vì nghề nghiệp (nhân viên y-tế) và tiếp nhận cơ quan hoặc mô từ những người hiến bị mắc bệnh

HCV. Nguy cơ mắc bệnh trong trường hợp một vợ môt chồng thường thấp (dưới 3%) cũng như

sự truyền dẫn từ mẹ cho con.Tuy nhiên nguy cơ đó tăng lên nếu người tình hoặc người mẹïbị

nhiễm thêm HIV. Nguy cơ mắc bệnh sau khi bị kim đâm (needlestick) là từ 1 tới 10% (trung bình