TRÌNH BÀY CẤU TRÚC PROTIT MÀNG TẾ BÀO EUKARYOTA

Câu 2. Trình bày cấu trúc protit màng tế bào Eukaryota? Lấy ví dụ minh họa?

Lipid màng tế bào đảm nhận phần cấu trúc cơ bản, còn các chức năng đặc hiệu của màng thì

phần lớn do các phân tử protein màng đảm nhiệm. Cho đến nay người ta đã phát hiện trên 50 loại

protein màng (cùng có trên một màng sinh chất duy nhất). Tỷ lệ P/L (Protein/lipid) là xấp xỉ 1 ở

màng tế bào hồng cầu.

Căn cứ vào tính cách liên kết với lipid màng, người ta chia protein màng ra làm hai loại:

protein xuyên màng và protein ngoại vi.

Protein xuyên màng

Gọi protein xuyên màng vì phân tử protein có một phần nằm xuyên suốt màng lipid và hai

phần đầu của phân tử thì thò ra hai phía bề mặt của màng.

Phần xuyên suốt màng là hình sợi nhưng có thể xuyên qua màng một lần, nhưng cũng có

loại xuyên qua màng nhiều lần, có khi có tới 6-7 lần các phần thò ra hai phía bề mặt màng đều ưa

nước.

Nhiều loại phân tử protein mà có đầu thò phía bào tương có nhóm carboxyl (COO

-

) mang

điện âm khiến chúng đẩy nhau và cũng vì vậy mà các phân tử protein xuyên màng tuy có di động

nhưng phân bố đồng đều trong toàn bộ màng tế bào (tính chất này có thay đổi khi độ pH thay

đổi).

Protein xuyên màng cũng có khả năng di động tịnh tiến trong màng lipid. Protein xuyên

màng chiếm tỷ lệ 70% protein màng tế bào.

Ví dụ protein xuyên màng: glycophorin, protein band

3

.

Glycophorin:

Glycophorin là một loại protein xuyên màng có phần kỵ nước xuyên màng ngắn. Chuỗi

polypeptid ưa nước thò ra ngoài màng có mang những nhánh oligosaccharid và cả những nhánh

polysaccharid. Các oligosaccharid này tạo phần lớn các carbonhydrat của bề mặt tế bào.

Chuỗi polypeptid có đuôi carboxyl ưa nước quay vào trong tế bào chất, có thể tham gia vào

việc liên kết với các protein khác bên trong màng.

Protein band

3

xuyên màng:

Protein band

3

là một phân tử protein dài, phần kỵ nước xuyên trong màng rất dài, lộn vào

lộn ra tới 6 lần. Phần thò ra mặt ngoài màng tế bào cũng liên kết với các oligosaccharid. Phần

xuyên màng phụ trách vận chuyển một số anion qua màng. Phần thò vào tế bào chất gồm hai

vùng: vùng gắn với ankyrin (một loại protein lát trong màng), vùng gắn với các enzym phân ly

glucose và gắn với hemoglobin.

Về protein xuyên màng ngày càng có thêm các ví dụ mà hay gặp là các protein enzyme

vận tải, tên của chúng phụ thuộc vào vật chất mà chúng vận tải qua màng.

Protein ngoại vi

Protein ngoại vi chiếm khoảng 30% thành phần protein; gặp ở mặt ngoài hoặc mặt trong

tế bào. Chúng liên kết với đầu thò ra hai bên màng của protein xuyên màng.

Lấy ví dụ ở hồng cầu: Fibronectin là protein ngoại vi ở phía ngoài màng còn actin, spectrin,

ankyrin, band

4.1

thì ở phía trong màng.

Tất cả 4 loại protein ngoại vi này làm thành một lưới protein lát bên trong màng hồng cầu

bảo đảm tính bền và hình lõm hai mặt cho màng hồng cầu.

Fibronectin là một protein màng ngoại vi bám ở mặt ngoài màng tế bào. protein này có ở

hầu hết động vật từ san hô cho đền người, ở các tế bào sợi, tế bào cơ trơn, tế bào nội mô…nhờ

fibronectin mà tế bào bám dính dễ dàng với cơ chất của nó.

Điều đáng chú ý là tế bào ung thư có tiết ra protein này, nhưng không giữ được nó trên bề

mặt của màng tế bào. Sự mất khả năng bám dính tạo điều kiện cho tế bào ung thư di cư.