MẶT SÔNG TRONG TÍCH TẮC LÒA SÁNG LÊN NHƯ MỘT CỬA BỂ ĐOM ĐÓM RỪNG ÙA XUỐNGMÀ CHÂM LỬA VÀO ĐẦU SÓNG

Câu 2 (4,0 điểm):

Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống

mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt

lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh

đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác.

Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của

người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút

nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã

nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá

nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm sáu cửa trận, có bốn cửa tử

một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm

nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu

ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo

đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi,

ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh,

mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước

bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt

bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra

để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng tiếng reo hò

của sóng thác luồng sinh [...]. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên

trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu

vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua

cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền

như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn

được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng

thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong

hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái

hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn

ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải

nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với

Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng

không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.

(Trích

Người lái đò Sông Đà

– Nguyễn Tuân,

Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục

Việt Nam, 2015, tr. 189-190)

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích trên.