40%, NGÔN NGỮ THUỘC NGỮ HỆ MÔN KHƠ ME CỦA CHỦNG NGƯỜI NAM ĐẢO, LÀ MỘT TIỂU CHỦNG SỐNG LÂU ĐỜI Ở KHU VỰC TRƯỜNG SƠN VÀ TÂY NGUYÊN CỦA ĐÔNG NAM Á
35,40%, ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn Khơ Me của chủng người Nam
Đảo, là một tiểu chủng sống lâu
đời ở khu vực Trường Sơn và Tây
Nguyên của Đông Nam Á.
Người Ca Dong chiếm 54,49% là một nhóm
địa phương của
dân tộc Xê đăng,
Chiếm 0,09% dân số toàn huyện, sống ở các xã vùng thấp
đó
là người Cor. Bhnoong là một nhóm tộc người thuộc dân tộc Giẻ -
Triêng chiếm 7,11% sống chủ yếu ở Trà Leng. Số lượng người Kinh
ở huyện chiếm 2,84%, dân số toàn huyện, sống chủ yếu
ở thị trấn
Tắk Pỏ. Thực tế vẫn chưa có một văn bản nào công nhận nhóm
7
người Ca Dong là một dân tộc độc lập. Do vậy, trong suốt luận văn,
tôi chỉ dùng tên Xê Đăng để gọi khi nói về dântộc thiểu số
ở Nam
Trà My. Và nhắc
đến Ca Dong khi phân tích yếu tố địa phương có
trong địa danh Nam Trà My.
b. Sắc thái văn hóa
Người Xơ
Đăng chỉ “ngủ”
ở lưng chừng núi.
Đó là không
gian họ được quyền sở hữu mà không xâm hại đến các thế giới khác
cần
được sự tôn trọng. Tên làng thường
được
đặt theo tên người
đứng ra lập làng, theo những đặc điểm tự nhiên trong vùng (làng Cây
Chong, làng Cây Đa,…)
Trước đây, vai trò chủ đạo trong sinh hoạt sản xuất gia đình do
người phụ nữ
đảm trách, vai trò, vị trí người phụ nữ trong nhà cao
hơn người
đàn ông.
Đặc biệt, gia
đình
đồng bào Ca Dong rất quý
trọng người con trai về ở rể. Đồng bào Ca Dong không tự dệt vải để
làm trang phục chính của mình. Đàn ông thường đóng khố, cởi trần,
vào những mùa giá lạnh thì khoác thêm tấm choàng. Phụ nữ, con gái
mặc váy
ống còn gọi váy chui và yếm che ngực.
Đồ trang sức của
người Ca Dong thông dụng nhất là vòng bạc, vòng đồng, chuỗi cườm
đá...
Khi nói
đến lễ hội của người Ca Dong thì phải nói đến các lễ
hội như lễ hội đâm trâu huê, lễ hội cúng lúa mới và tục cúng máng
nước. Đây là những nét đặc trưng trong văn hóa của người Ca Dong.