(5 ĐIỂM)YÊU CẦU CHUNG
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0,5 điểm
Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài
viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ
- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Người lái đò Sông Đà
- Dạng bài: Phân tích, cảm nhận
- Yêu cầu: làm rõ đặc sắc về nội dung, nghệ thuật, đồng thời bàn luận và đánh giá về đoạn trích, tài năng
của nhà văn.
TIẾN TRÌNH LÀM BÀI
KIẾN THỨC
HỆ THỐNG Ý
PHÂN TÍCH CHI TIẾT
- Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu nhất của nền văn xuôi Việt Nam
CHUNG
Khái quát vài
nét về tác giả -
hiện đại. Nguyễn Tuân “là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vẻ
đẹp văn chương, dấu ấn về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
tác phẩm
được thể hiện trên những kiệt tác văn chương như Vang bóng một
thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972) ... Văn
Nguyễn Tuân rất uyên bác, độc đáo. Các kiến thức về văn hoá, địa lí,
0,5 điểm
lịch sử, phong tục, những miền quê, những vùng đất... được ông kể
rất đậm đà, duyên dáng. Ông là bậc thầy về ngôn ngữ văn chương
giàu có, sáng tạo.
- Người lái đò Sông Đà là bài tuỳ bút được in trong tập Sông Đà
(1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ
mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào
hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thoả mãn cái
thú tìm đến những miền đất lạ cho thoả niềm khát khao "xê dịch”, mà
chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng "thứ vàng mười
đã qua thử lửa" ở tâm hồn của những con người lao động và chiến
đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó.
- Những đoạn trích dưới đây là những áng văn hay nhất trong bài tuỳ
bút, miêu tả lại đoạn Tà Mường Vát và khúc thác đá Sông Đà, đã làm
bật lên hình ảnh con Sông Đà hung bạo, kẻ thù số một của loài
người.
Hình ảnh sông
- Nguyễn Tuân không tả như cách người ta vẫn tả, dẫn cảm xúc như
TRỌNG
Đà đoạn Tà
cách người ta vẫn dẫn. Đoạn văn nói về cảnh Tà Mường Vát là một
TÂM
Mường Vát
thước phim vô cùng độc đáo, hấp dẫn. Nó đến từ cách nhà văn khám
phá những cái hút nước trên mặt sông đầy tài hoa, tỉ mỉ:
- Trong điểm nhìn từ bên ngoài: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đem
đến hàng loạt những so sánh về cả hình ảnh, âm thanh để phác họa
4 điểm
những cái hút nước trên sông đoạn Tà Mường Vát:
+ Trước hết là về hình ảnh, ông đã liên tưởng ngay đến những cái
giếng bê tông. Hình dung trong độc giả sẽ hiện lên ngay cái miệng
giếng rộng, đáy sâu, vô cùng vững chắc do được cấu tạo từ gạch, sỏi,
cát và xi măng trộn lên mà thành. Hút nước trên sông Đà cũng vậy,
nó chính là những cái giếng bê tông được xây trên mặt sông Đà, và
đặc biệt hơn, tuy chất liệu của nó là nước, nhưng với trạng thái xoáy
tít, độ vững chãi và sức phá hủy của nó cũng không thua kém bê
tông.
+ Sức mạnh của những cái hút nước: Qua sự tái hiện hình ảnh một
chiếc bè gỗ (chiếc bè lớn, cấu tạo chắc chắn, chở gỗ nặng, lại ngâm
nước, do vậy mà vững như bàn thạch) khi vô tình lọt vào hút nước
Sông Đà, ngay lập tức, cái hút ấy lôi tuột chiếc bè xuống, để nói sự
mau lẹ, cái khoảnh khắc xoáy nước đã vồ lấy đối tượng vô tình đi
qua nó. Và sau mươi phút “ngẫu nghiên’' chiến lợi phẩm, cái bè đã
tan xác ở khuỷnh sông dưới.
- Góc nhìn bên trong: Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn dụng công
trong việc hình dung ra hình ảnh của những chiếc xoáy nước với giả
tưởng đặt vào lòng nó một chiếc máy quay phim từ một anh quay
phim liều lĩnh. Có thể nói đó là cảnh tượng xưa nay chưa từng có:
+ Hình ảnh bên trong xoáy nước là về độ cao từ đáy đến mặt sông:
cao đến vài sải. Từ dưới đáy nhìn lên thấy một màu xanh ve của nước
sông, cảm tưởng như đó là một khối thủy tinh được tạo bởi nước, vẻ
đẹp bên trong khiến người ta xuýt xoa, bởi chẳng ai dám lại gần, chứ
đừng nói mạo hiểm khám phá cả bên trong.
1. Thác đá qua cảm nhận thính giác:
Đà đoạn thác
- Thác đá khi ở xa: được cảm nhận qua bốn tính từ: van xin, khiêu
đá
khích, gằn, chế nhạo. Có thể nói, không như cách miêu tả âm thanh
thông thường, với những từ chỉ âm thanh để miêu tả tiếng nước thác
như ầm ầm, rào rào... mà nhà văn còn sử dụng những từ chỉ trạng
thái, thái độ của con người để gán lên âm thanh tiếng nước thác. Với
cách dịch chuyển này, nhà văn đã đem lại cho người đọc cảm giác, ở
xa kia, không còn là thác nước nữa, chờ đón con thuyền chính là con
quái vật hung hăng, đầy hiểm ác.
- Thác đá khi lại gần: nó đã biến thành một tổ hợp trường đoạn âm
thanh khủng khiếp, chưa từng thấy. Nó đem đến sự giật thột, cái bàng
hoàng trước luồng âm thanh va đập, phóng thẳng vào màng nhĩ. Đi
bóc tách các luồng âm thanh này, ta sẽ thấy lần lượt hiện lên:
+ Là tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang hoảng sợ, tiếng
nổ của rừng vầu tre nứa bị cháy: với cấu tạo đặc biệt là rỗng ruột, khi
cháy, vầu, tre, nứa sẽ có tiếng nổ lớn. Là tiếng xèo xèo của da trâu
cháy. Và đặc biệt nhất, đó là bước chân chạy của những con trâu
mộng đang hoảng sợ, giẫm đạp, phá tuông, hoảng loạn. Ta có thể
hình dung ra ngay khung cảnh hỗn loạn đó, với thân hình to lớn, đồ
sộ, lại đông đảo, cùng chạy khỏi rừng lửa, những bước chân trâu
không chỉ làm nên âm thanh, nó còn làm chấn động, làm tròng
chành, rung chuyển cả không gian trên bờ, dưới mặt.
+ Qua mô tả âm thanh, có thể nói, chưa cần phải nhìn, ta đã cảm
nhận được sự kỳ vĩ của thác đá Sông Đà. Và bằng nghệ thuật miêu tả
độc đáo: Lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, Nguyễn Tuân đã cho ta
thấy sức mạnh của ngòi bút tài hoa, của trí tưởng tượng tuyệt vời của
một bản lĩnh hiếm ai có.
2. Thác đá qua cảm nhận thị giác:
- Cái nhìn khái quát: Chỉ bằng câu văn: “Sóng bọt đã trắng xóa cả
chân trời đá".
Câu văn đã giúp ta cảm nhận được cả độ cao của thác
và tính chất lòng sông. Để sóng bọt tung trắng xóa cả không gian,
trước hết thác phải rất cao, thứ hai lòng sông phải toàn đá, có như
vậy độ va đập khi nước chạm lòng sông mới làm văng lên những bọt
nước, mới trắng xóa, che lấp cả tầm nhìn gần. Nhưng ấn tượng hơn là
cụm từ “chân trời đá”. Cụm từ này nói lên hình ảnh thật kỳ vĩ, bằng
góc nhìn ra xa, lên cao, đến tận cuối chân trời, không nhìn thấy chân
mây, hay mặt đất quen thuộc, mà chỉ thấy lổm ngổm, ngổn ngang
toàn đá là đá, đá vươn dài, bò đến tận chân trời.
- Cái nhìn cận cảnh:
+ Đá ở đây ngàn năm mai phục, lũ đá Sông Đà chính là những binh
tướng lão luyện, dạn dày qua hàng trăm trận đánh, qua hàng nghìn
năm tích lũy kinh nghiệm, do đó mà vô cùng dũng mãnh. Sở trường
của chúng là ẩn nấp, mai phục.
+ Thế đòn hiểm của đá là biết chồm cả dậy để vồ lấy thuyền, vô cùng
bất ngờ, đẩy đối phương vào thế bị động. Cách miêu tả của nhà văn
thật kỳ thú, trong hình dung của ông, sự dập dềnh của sóng nước phủ
lấy đá, làm đá lúc ẩn, lúc chồi như sự mai phục, như thể đá biết nhào,
vồ những con thuyền. Đặc biệt hơn, khi chiếu vào từng hòn đá, mới
thấy từng hòn biểu lộ sắc thái, vẻ mặt riêng, không hòn nào giống
hòn nào, nhưng đều có điểm chung là hung hăng, hiếu chiến.
+ Đá ở đây không chỉ dạn dày trận mạc, cái ác hiểm nhất của chúng
là cách sắp xếp thành trùng vi thạch trận với ba vòng đầy hiểm ác. Vị
tổng tư lệnh Sông Đà đã bày binh bố trận thành trận đồ bát quái đầy
hóc hiểm, khó lòng mà vượt thoát.
+ Và trong con mắt nhà văn, khúc sông này, tựa như một khu căn cứ
kiên cố, được cài đặt trong đó những boong ke chìm, pháo đài đá nổi,
nhà văn gọi những con thuyền chèo qua đây là những con thuyền du
kích, để nói khu căn cứ quân sự chết chóc ấy, đến dấu ấn của vị tổng
tư lệnh Sông Đà - kẻ thù số 1 của con người nơi đây.
- Người lái đò Sông Đà
chính là cuộc đổ bộ ngôn từ mà Nguyễn
Đánh giá và
bàn luận
Tuân đã chỉ huy cực tài ba. Hai hình tượng Sông Đà và ông lái đò đã
đáp gọi được nhiệt hứng, nguồn mạch của cây bút ham thích cái dị
biệt.
- Nguyễn Tuân đã huy động cả nghệ thuật văn chương - lẫn các hình
thức nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ
đạo, điện ảnh... Ông thường sử dụng nghệ thuật điện ảnh khiến cho
những trang văn như phập phồng, tạo sức gợi.
- Chất tài hoa của Nguyễn Tuân còn ở cách sử dụng và huy động vốn
Tiếng Việt thật tài tình. Tố Hữu đã gọi Nguyễn Tuân là bậc “chuyên
viên cao cấp của Tiếng Việt” quả không hổ danh.