(5 ĐIỂM)YÊU CẦU CHUNG

Câu 2 (5 điểm)

Yêu cầu chung: 0,5 điểm

Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài

viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.

Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm

ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ

- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Vợ nhặt, Chí Phèo

- Dạng bài: so sánh, bàn luận ý kiến

- Yêu cầu: phân tích hai tình huống, chỉ ra được điểm riêng chung, từ đó bàn luận về ý kiến được nêu

trong yêu cầu.

TIẾN TRÌNH LÀM BÀI

KIẾN THỨC

HỆ THỐNG Ý

PHÂN TÍCH CHI TIẾT

Khái quát vài

- Từ những trang viết độc đáo về nông thôn, với những truyện ngắn

CHUNG

nét về tác giả -

được xếp vào hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX

tác phẩm

như Vợ nhăt, Làng có người đã gọi Kim Lân là cây bút độc đáo của

làng quê Việt Nam. Nhà văn Nguyên Hông cũng từng nhận xét về

người bạn đồng nghiệp của mình rằng: Kim Lân là nhà văn một lòng

đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc

0,5 điểm

sống nông thôn. Hay nói cách khác, Nhà văn Kim Lân là một trong

những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam

đương đại.

- Tác phẩm nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của

truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách

mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Là một trong

những truyện ngắn xuất sắc nhất trong văn xuôi Việt Nam hiện đại,

Kim Lân đã xây dựng câu chuyện nhặt vợ trên cái nền hiện thực thê

thảm của Nhân dân ta thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, mà cụ thể

là nạn đói năm 1945.

- Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biêu nhất của trào lưu

hiện thực phê phán thời kỳ 1940 - 1945, là một trong những cây bút

tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp

1945 - 1954. Các tác phẩm của ông vừa rất mực chân thành vừa có

một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực

tỉnh táo, nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, vừa gân guốc, lại vừa thắm thiết

trữ tình. Nhà văn có sở trường trong miêu tả tâm lý con người, nhất

là khi đi vào miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp.

- Chí Phèo (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao

viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có

thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam

Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán. Tác

giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí

Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu

nhất của nền văn học Việt Nam.

Giải thích

- Hình tượng tiêu biểu, điển hình: Nhân vật điển hình thường khái

quát số phận và tính cách của một loại người, một tầng lớp hay một

giai cấp. Xây dựng điển hình nhà văn phải phát hiện những chi tiết cá

biệt, độc đáo, không lặp lại để làm nổi bật những nét, những tính

cách quan trọng, những quan hệ tiêu biểu trong đời sống.

- Chí Phèo và Tràng chính là những điển hình tiêu biểu cho người

nông dân trong hai giai đoạn quan trọng, trước và khi có cách mạng.

Phản ánh được bản chất, khát vọng của giai cấp đông đảo nhất trong

xã hội.

TRỌNG

Nhân vật

- Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê

TÂM

Tràng và tình

thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra

huống nhặt vợ

năm 1945. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong

một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo

bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối duyên bắt nguồn

từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.

4 điểm

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để

từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, cưu mang

đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ

nhặt đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhanh,

nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường

như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ

rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài

chợ. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt).

Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái

hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư,

đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo

thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc

cho hàng xóm, bà cụ Tứ - mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.

Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở

mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng. Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ,

bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn

quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng "đến bây giờ hắn

vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.

Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành

niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình -

một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chàng thanh

niên nghèo khó "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái

nhà của hắn lạ lùng. Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng

Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân

trọng, coi chuyện lấy Thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm

gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói. Buổi sáng hôm

sau, Tràng thấy khoan khoải như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn

đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà

như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng

có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên

người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong

lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

Chí Phèo và

- Trong một lần say rượu, vô tình, Chí Phèo đã gặp Thị Nở - một

năm ngày bên

người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng

Thị Nở

với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi

mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu

mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của Thị Nở đã đốt cháy lên ngọn

lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất

lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc.

- Chính Thị Nở đã làm Chí tỉnh rượu, và khi đã tỉnh rượu, các giác

quan trở lại, hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh

sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng

anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót... Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn

lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Hắn nhớ

lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ.

Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để

làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn

thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành

hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị

mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn

Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã

già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà

hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn

có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô

độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau.

- Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần

người trong con quỷ dữ. Kỳ diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, một

liều thuốc tiên vừa giải cảm vừa giải độc. Cháo hành đã tẩy ố đi men

rượu, gột rửa những tội lỗi con người.

- Niềm hi vọng: Ước mơ lương thiện trở về, Chí thấy thèm lương

thiện và muốn làm hòa với mọi người... Chí đặt hi vọng lớn vào Thị

Nở: “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn

thì sao người khác lại không thể được... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái

xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện".

Chí

hình dung về tương lai tươi đẹp khi chung sống cùng với Thị Nở.

- Có thể thấy cả hai hình tượng đều làm bật lên được những thân

Đánh giá và

bàn luận

phận khốn cùng của người nông dân, đó là những kiếp người bị hoàn

cảnh xã hội đẩy vào những bước đường cùng, làm cho bị biến đổi.

Họ phải oằn mình đối diện trước cái đói và miếng ăn.

- Họ đều là những con người dù có bao cơ cực, vẫn giữ cho mình sự

lương thiện, thuần hậu, và những khát khao rất đời thường, đặc biệt

là khát khao mái ấm luôn cháy bỏng.

- Tuy nhiên, hình tượng Chí Phèo là bức chân dung cho người nông

dân bi kịch không lối thoát trước cách mạng tháng Tám.

- Còn Tràng là bức chân dung người nông dân trong thời đại mới,

tươi sáng hơn.