SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG

2. Sự nghiệp văn chương: a. Trước cách mạng: Nam Cao có sáng tác đăng báo năm 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thật sự bắt đầu từ truyện ngắn "Chí Phèo" năm 1941. Sáng tác của Nam Cao tập trung vào 2 đề tài chính: - Đề tài người trí thức tiểu tư sản: Nam Cao miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những nhà văn nghèo, những giáo khổ trường tư…Nhà văn đặc biệt đi sâu vào bi kịch tâm hồn của họ. Đó là tấm bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc giá trị sự sống và nhân phẩm, có một hoài bão lớn về sự nghiệp, những lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm "chết mòn" phải sống cuộc sống đời thừa.(Các tác phẩm tiêu biểu: Đời thừa, Trăng sáng, Mua nhà) - Đề tài người nông dân: Nam cao quan tâm đến những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp. Họ càng hiền lành, nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng. Tuy giọng văn lắm khi lạnh lùng nhưng kì thực Nam Cao đã dứt khoát bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con người bất hạnh. Viết về người nông dân bị lưu manh hoá, nhà văn đã kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và linh hồn người nông dân lao động, đồng thời, ông vẫn phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện và đẹp đẽ của họ ngay cả khi bị vùi dập.( Các tác phẩm tiêu biểu: Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no…) b. Sau cách mạng: Nam Cao lao mình vào mọi công tác cách mạng và kháng chiến. Ông tự làm người cán bộ tuyên truyền vô danh của cách mạng và có ý thức tự rèn luyện cải tạo mình trong thực tế kháng chiến.( Các tác phẩm tiêu biểu: Đôi mắt, Nhật kí ở rừng, Chuyện biên giới) V/ Tác gia Xuân Diệu: ĐH Sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu: Xuân Diệu sáng tác thơ, văn xuôi, phê bình, tiểu luận. Hoạt động văn nghệ của ông phong phú đa dạng. a/ Thơ ca: * Trước cách mạng: Xuân Diệu sáng tác thơ là chính. Thơ ông giai đoạn này dừng như có hai tâm trạng trái ngược: Nhà thơ rất yêu đời, rất thiết tha với cuộc sống; nhưng đồng thời lại rất chán nản hoài nghi, cô đơn. Hai tâm trạng này có mối quan hệ nhân quả. - Xuân Diệu rất yêu đời, rất thiết tha với cuộc sống. Cảnh vật trong thơ Xuân Diệu đầy sức lôi cuốn. Người đọc không thờ ơ được với khí trời, với trăng, với hoa. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là khu vườn đủ mọi hương sắc, là bản nhạc đủ mọi thanh âm: Từ tình yêu ngây thơ, e ấp đến đằm thắm, dịu ngọt, từ nồng nàn say đắm đến si mê điên dại( Huyền diệu). Có thể nói, cuộc sống trong thơ Xuân Diệu thật là phong phú, tuyệt diệu, thế giới, vũ trụ trong thơ Xuân Diệu rất tràn đầy đáng sống. - Thơ Xuân Diệu cũng nói lên nhiều chán nản, hoài nghi, nhân vật trữ tình hiện diện trong thơ hết sức cô đơn. Xuân Diệu là nhà thơ theo khuynh hướng lãng mạng. Người nghệ sĩ thường đòi hỏi cái hoàn mĩ, tự nuôi mình bằng ảo vọng nhưng bước vào thực tế nhà thơ cảm thấy bơ vơ và bất lực.(Khi chiều giăng lưới, Nguyệt cầm). Nỗi ám ảnh về thời gian đi nhanh tuổi trẻ qua mau khiến Xuân Diệu tự đề ra cho mình một quan niệm: sống gấp gáp, tham lam, yêu hốt hoảng, liều lĩnh (Vội vàng, Giục giã) - Nghệ thuật thơ Xuân Diệu: đặc sắc là cảm hứng, thi tứ, bút pháp. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không bị diễn tả một cách bóng gió, ước lệ, tượng trưng mà cụ thể đầy đủ với ý nghĩa tình yêu bao gồm cả tâm hồn và thể xác. Xuân Diệu thưởng thức thiên nhiên bằng cả xúc giác và vị giác,đặc biệt thiên nhiên được nhân hoá làm cho thiên nhiên cói nhũng tâm tư hành động rất người. * Sau cách mạng: thơ Xuân Diệu đã bắt đầu đổi mới. Là người yêu đời, Xuân Diệu đón nhận cuộc sống mới với tất cả niềm chân thành và sự vui sướng. Tấm lòng nhà thơ mở ra với những người nông dân nghèo khổ mà hiền hậu(Mẹ con, Ngôi sao). Tập thơ "Riêng chung" năm1960 là một nổ lực của Xuân Diệu để hoà cái riêngvào cái chung của dất nước. Cảm hứng mới, đề tài mới, nội dung mới đòi hỏi cách thể hiện mới. Ngòi bút Xuân Diệu không đi theo lối cũ đường quen mà cân mẫn mài luyện ngòi bút mới. Bút pháp của ông giai đoạn này phong phú về giọng, vẻ. Ngoài ra giọng thơ của ông cúng đa dạng: chính luận kết hợp với trữ tình trào phúng. b/ Văn xuôi: Tác giả cũng có những thành công đáng kể trong các tác phẩm truyện ngắn.Văn xuôi của ông ngọt ngào giàu âm thanh, màu sắc( Phấn thông vàng) c/ Về các tác phẩm nghiên cứu phê bình, tiểu luận:Xuân Diệu có những khám phá độc đáo sâu sắc, có những nhận xét chính xác tinh tế về các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… Xuân Diệu dù ở sáng tác thơ hay văn xuôi điều có những đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại.

PHẦN GIẢI TÍCH Ý NGHĨA NHAN ĐỀ