CÂU 14. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG NHẰM GIẢI QUYẾT NHỮNG K...

3.1 Chống giặc ngoại xâm. Diễn ra qua hai thời kỳ. Trước và sau 6/3/1946a.Trước 6/3/1946:*Chủ trương: Hòa với quân Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam*Biện pháp:-Đối với quân Tưởng ở Miền Bắc: Hòa hoãn tránh xung đột, giao thiệp thân thiện, nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi về kinh tế và chính trị như nhận cung cấp lương thực thực phẩm, nhận tiêu tiền mất giá của chúng, nhường cho tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc hội và 4 ghế trong chính phủ không qua bầu cử.Tác dụng: Làm thất bại âm mưu của Tưởng, đồng thời vô hiệu hóa các hoạt động chống phá của bọn tay sai của Tưởng, ta có điều kiện tập trung lực lượng chống Phápở miền Nam-Đối với quân Pháp ở Miền Nam: Kiên quyết chống bọn thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.Nhân dân Nam Bộ đã anh dũng chống Pháp bằng mọi thứ vũ khí có sẵn và bằng mọi hình thức. Đồng bào cả nước hướng về Miền Nam ruột thịt.b. Sau ngày 6/3/1946*Chủ trương: Hòa với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng, tranh thủ thời gian để chuẩn bị kháng chiến lâu dài.*Biện pháp: Ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946Hiệp định sơ bộ (6/3/1946)*Hoàn cảnh lịch sử:-Đối với Pháp: Sau khi chiếm đóng một số nơi ở Nam Bộ thì thực dân Pháp chuẩn bịđưa quân ra Bắc để thôn tính toàn bộ nước ta. Song chúng khó thực hiện được vì gặp nhiều khó khăn giữa bình định và lấn chiếm:+Chưa bình định xong Nam Bộ.+Nếu lấn chiếm ra Miền Bắc thì gặp phải hai khó khăn: Một là gặp phải lực lượng kháng chiến của ta; hai là phải đụng độ với 20 vạn quân Tưởng , nên Pháp muốn thương lượng để thay quân Tưởng ở Miền Bắc.-Đối với quân Tưởng: Cần về nước để đối phó với cách mạng Trung Quốc=> Tình hình trên Pháp -Tưởng đã bắt tay câu kết với nhau chúng đã ký hiệp ước Hoa-Pháp 28/2/1946. Đây là một âm mưu thâm độc của kẻ thù đặt cách mạng nước ta trước hai con đường phải chọn một:+Một là cầm vũ khí đứng lên chống Pháp khi chúng vừa đến Miền Bắc.+Hoặc là chủ động đàm phán với Pháp để gạt nhanh 20 vạn quân Tưởng về nước và tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng chống Pháp sau này.Sau khi nhận định đánh giá tình hình ta chọn giải pháp hòa với Pháp bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946*Nội dung:-Chính phủ Pháp công nhận nước ta là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp-Ta đồng ý cho 15000 quân Pháp ra Miền Bắc thay cho quân Tưởng và rút dần trong thời hạn 5 năm.-Hai bên ngừng bắn ở Nam Bộ để đàm phán ở Pari.=> Việc ký Hiệp định Sơ bộ ta đã loại được một kẻ thù nguy hiểm tránh được một cuộc chiến đấu bất lợi cho ta, ta có thêm thời gian hòa bình để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.Tạm ước 14/9/1946. Sau Hiệp định sơ bộ, ta thể hiện thiện chí hòa bình còn Pháp vẫn cố tình trì hoãn việc thi hành và vẫn tăng cường những hành động khiêu khích làm cho cuộc đàm phán ở Phôngtennơblô không thành, quan hệ Việt Pháp trở nên căng thẳng có nguy cơ xảy ra chiến tranh.Trước tình hình đó, để kéo dài thêm thời gian hòa hoãn chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp với Pháp bản Tạm ước 14/9 tiếp tục nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi. (Đây là giới hạn cuối cùng của sự nhân nhượng)*Tác dụng của việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3 và tạm ước 14/9-Đập tan ý đồ của Pháp trong việc câu kết với Tưởng để chống lại ta.-Đẩy nhanh được 20 vạn quân Tưởng và tay sai về nước, thoát được thế bao vây của kẻ thù.-Có thêm thời gian để củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài.